Bản in của bài viết

Click vào đây để xem bài viết này ở định dạng ban đầu

Đỗ Minh Tân

Sự tạo hóa


http://www.picturetrail.com/misc/counter.fcgi?link=%2FphotoFlick%2Fsamples%2Fpflicks%3Dshtml&cID=924




SỰ TÍCH THÍCH CA MÂU NI PHẬT



Đức Phật Thích ca nguyên tên là Tất đạt đa. Họ Ngài

là Thích ca, một chi nhánh của họ Kiều tất la, là một

quý tộc. Tên Ngài nói đủ là Kiều tất la Thích ca Tất đạt

đa (Kosala akya Siddhrtha). Còn Mâu ni là đức tính

trong sạch, vắng lặng của Ngài, chỉ là tiếng để

khen ngợi.Ngài là con vua Tịnh Phạn nước Ca tỳ

la vệ (Kapilavastu), mẹ Ngài là Hoàng hậu Ma da.

Nước Ca tỳ la vệ tức là xứ Pipaova ở phía Bắc thành

Ba la nại (Bénares) ngày nay.

user posted image


Thái tử sinh lúc mặt trời vừa mọc, nhằm ngày trăng

tròn tháng hai Ấn Độ, tức là ngày mồng tám tháng

tư lịch Tàu. Ngài sinh vào khoảng 563 năm trước

Tây lịch. Theo tục lệ Ấn Độ đàn bà có chồng lúc sinh

nở phải trở về nhà cha mẹ. Bà Hoàng hậu Ma da

trở về ngang qua vườn Lâm tỳ ni của vua Thiện Giác

thì sinh Ngài dưới cây vô ưu. Khi mới sinh, Ngài đứng

trên hoa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất,

miệng nói: "Trên trời dưới trời chỉ một mình ta là lớn."

Thái tử sinh ra có nhiều điềm lạ: quả đất rung động,

vừa sinh ra Ngài đã đi bảy bước,... mọi người đều

hân hoan đón mừng vị cứu tinh xuất hiện. Thái tử

sinh ra đã có 32 tướng tốt báo trước Ngài là một vị

xuất chúng và Ngài sẽ thành Phật để dìu dắt muôn

loài. Ngài sinh ra vừa được bảy ngày, mẹ Ngài từ trần.

Bà dì Ngài là bà Ma ha Ba xà ba đề nuôi nấng chăm

sóc Ngài. Ngài rất thông minh, các vị giáo sư danh

tiếng dạy Ngài đều phải bái phục.


Thái tử sống trong cảnh cực kỳ sung sướng và được

sự nuông chiều hết sức của vua cha. Xung quanh

Ngài luôn luôn có vũ nữ ngày đêm đờn ca xướng hát

để làm vui lòng Ngài. Tuy nhiên, Thái tử vẫn trầm

tư mặc tưởng. Trên mặt luôn luôn lộ nét buồn kín

đáo và, một đôi khi Ngài đã tỏ với vua cha xin đi

xuất gia để tìm phương cứu mình, cứu đời. Đoán

biết ý con, vua Tịnh Phạn sinh sợ sệt và tìm đủ

mọi cách tăng thêm dục lạc, mong làm khuây được

chí nguyện xuất gia của Ngài.

Sau nhiều lần mục kích những thảm trạng già, đau,

bệnh, chết và sự bất công mạnh hiếp yếu, khôn lấn

dại, trong những cuộc du ngoạn ở bốn cửa thành.

Thái tử Tất đạt đa cảm nhận được những nỗi thống

khổ của con người. Lòng thương chúng sanh bồng

bột nổi dậy, Thái tử không còn vui được nữa.

Với một ý chí cương quyết tìm chân lý, nên trong

một đêm kia sau buổi yến tiệc linh đình, Ngài đã

cưỡi ngựa Kiền Trắc vượt thành xuất gia với tên

hầu cận trung thành Xa nặc; giữa lúc mọi người

đang chìm trong bóng tối và mê man theo giấc ngủ.

Ngài ra đi lúc 19 tuổi, ngày mồng tám tháng hai vào

lúc giữa đêm.

Đi sâu vào rừng đến bờ sông Anoma, Ngài cắt tóc

và thay đổi y phục trao lại bảo Xa nặc đem về dâng

Phụ hoàng và tỏ rõ sự tình. Từ đây, Thái tử đã trở

thành một đạo sĩ và dấn thân trên đường tìm đạo.

Ngài đi đến thành Vương xá (RajagrÌha) xứ Ma

kiệt đà, tìm đến các vị Đạo sĩ Bà la môn mà tham

khảo phương pháp tu hành. Sau một thời gian tu

luyện, Ngài không thỏa mãn vì cho rằng chưa được

rốt ráo. Ngài liền vào rừng Ưu lâu tần loa xứ Phật đà

già da (Bouddhagaya) tu hạnh ép xác, một ngày

chỉ ăn một hạt mè, hạt gạo và suy nghĩ trong

sáu năm, song vẫn thấy vô hiệu. Ngài nhận thấy lối

tu khổ hạnh ấy không phải là lối tu giải thoát.

Và sau khi nhận bát sữa của nàng Tu xà đề dâng

cúng, thân thể bình phục, tâm hồn sảng khoái, Ngài

đến dưới gốc cây bồ đề ngồi trên thảm tọa và phát

nguyện: "Nếu không tìm ra chân lý thì thà chết ta

không rời thảm tọa này". Trải một thời gian thiền

quán, Ngài đã chiến thắng được tất cả những tật

xấu xa của thân thể và nội tâm. Ngài lại uốn dẹp

được mọi sự phá rối của ma vương bên ngoài.

Đầu đêm, Ngài chứng được Túc mạng minh, thấy

rõ ràng những đời quá khứ, hiện tại, vị lai;

nửa đêm, Ngài chứng được Thiên nhãn minh,

thấy được cả vũ trụ bao la; cuối đêm vào lúc sao

mai mọc, Ngài chứng được Lậu tận minh, nhận chân

nguồn gốc sanh tử luân hồi là sự mê mờ gọi là

vô minh, và hoàn toàn giác ngộ.

Ngài đã thành đạo vào lúc sao mai mọc, ngày

8 tháng Chạp. Sau khi thành đạo, Ngài đã than:

"Than ôi! Chúng sanh vốn đầy đức tướng trí huệ

Như lai, nhưng chỉ vì vô minh che lấp nên phải

sanh tử luân hồi đấy thôi!".

Sau đó, Ngài liền đến vườn Lộc uyển nói pháp

Tứ đế độ cho năm ông tỳ kheo (Kiều trần như,

Ac bệ, Thập lục ca diếp, Ma ha nam Câu ly và

Bạc đề). Từ đó đạo Ngài truyền khắp xứ Trung

Ấn Độ và lan mãi khắp hoàn cầu.

Trải qua 49 năm trên đường giáo hóa, Ngài

đã tận lực gieo rắc ánh đạo vàng khắp đó đây,

hóa độ chúng sanh. Vô số người đã được mang

ơn pháp nhũ của Ngài mà trở về với chánh đạo.

Nhơn duyên đã mãn, những người nên độ đều

đã độ xong. Ngài vào niết bàn tại rừng Ta la song

thọ, để lại những nỗi thương tiếc tràn ngập cả

lòng người. Ngài nhập diệt lúc 81 tuổi, nửa đêm

ngày Rằm tháng hai âm lịch.

VnVista I-Shine
© http://vnvista.com