Đọc thơ Đường luôn cho cái cảm giác thư thái và ngạc nhiên như được xem một bức hoạ thật đẹp với chất liệu đặc biệt và gần gũi vậy. Nhân lúc thư thái mang ra đọc cũng thú vị lắm. Tiếc là không dám ngâm to lên cho sướng
( Chưa biết Chợ quán là khách sạn nào, thề đấy
)
Hoàng Hạc Lâu
--Thôi Hiệu--
Bản gốc :
Tương truyền, một hôm Lý Bạch đi ngang Hoàng Hạc Lâu , thấy phong cảnh hữu tình bèn muốn phóng bút một vài câu thơ, nhưng lại thấy bài Hoàng Hạc Lâu này trên vách đá bèn ngửa mặt than rằng :
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu
( Tức là : trước mắt có cảnh mà không thể làm thơ được vì đã có Thôi Hiệu làm ở trên rồi) -Chẳng biết có thật hay không nữa
Lầu Hoàng Hạc :
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh bày cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Người dịch : Tản Đà
************************
Xưa cánh hạc bay vút bóng người
Nay laàu Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc, bay bay mãi
Trắng một màu mây, vạn vạn đời
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống đâu quê quán
Đừng giục con sầu nữa sóng ơi! -- Người dịch :
Vũ Hoàng Chương--
****************
Người xưa cưỡi hạc đã cao bay,
Lầu Hạc còn suông với chốn này
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay
Vàng gieo bến Hán ngàn cây hửng
Xanh ngắt châu Anh, lớp cỏ dầy.
Trời tối quê hương đâu tá nhỉ ?
Đầy sông khói sóng gọi niềm tây.(-- Người dịch :
Ngô Tất Tố--)
****************
Home LongingsHere a mortal once sailed up to Heaven on a crane,
And the Yellow-Crane Kiosque will for ever remain;
But the bird flew away and will come back no more.
Though the white clouds are there as the white clouds of yore.
Away to the east lie fair forests of trees,
From the flowers on the west comes a scent-laden breeze,
Yet my eyes daily turn to their far-away home,
Beyond the broad River, its waves, and its foam.(-- translated by H.A. Giles--)
H. A. Giles (Chinese poetry in English verse, London, 1898)
*****************
Le Pavillon de la Grue JauneMonté sur une grue jaune, jadis, un homme s'en alla pour toujours;
Il ne resta ici que le Pavillon de la Grue Jaune.
La grue jaune, une fois partie, n'est jamais revenue;
Depuis mille ans les nuages blancs flottent au ciel, à perte de vue.
Par temps clair, sur le Fleuve, on distingue les arbres de Han Yang;
Sur l'Ile des Perroquets, les herbes parfumées forment d'épais massifs.
Voici le soir qui tombe. Où donc est mon pays natal ?
Que la brume et les vagues sont tristes sur le Fleuve !---Translated by
P. Demiéville (Anthologie de la poésie chinoise classique, Gallimard, Paris, 1962)---
*****************
Der Turm zum Gelben KranichAuf seinem gelben Kranich flog der Weise vorseiten fort.
Der Turm zum gelben Kranich blieb allein am leeren Ort.
Und ist der Kranich einmal fortgeflogen, bleibt er uns weit.
Die Wolken aber fluten still dahin in Ewigkeit.
Dort überm Strom, ganz klar, sieht man die Bäume von Han-yang blühn;
Und auf dem Papageiensand der Gräser duftendes Grün.
Die Sonne sinkt hinab. Sag mir, wo liegt der Heimat Erde ?
Das Nebelwogen auf dem Strome macht, daß ich beklommen werde.--Translated by
G. Debon (Lyrik des Ostens : China, München, 1962)--
( cyclo - Sưu tầm )