25) Tên Thật!!!
Huỳnh Quả Nguyệt
Gia đình tôi vượt biên rời Việt Nam và được định cư ở Mỹ vào năm 1979. Vì theo đạo Phật nên khi đến Mỹ chúng tôi cũng tìm đến chùa để cúng kiến lễ bái như lúc còn ở Việt Nam. Mấy năm đầu chúng tôi thường lui tới các chùa Việt Nam ở gần nhà.
Mãi đến năm 1983, con trai tôi vì muốn thăm viếng chùa người Hoa nên đã chở chúng tôi đến chùa Vạn Phật, và đó là lần đầu tiên chúng tôi được biết đến Hòa Thượng Tuyên Hóa. Cảm mến oai đức của Ngài và cũng vì cư ngụ gần San Francisco, nên chúng tôi thường lui tới chùa Kim Sơn, chi nhánh của Vạn Phật Thánh Thành để tham gia các khóa lễ, nghe thuyết giảng và làm công quả. Lúc bấy giờ Hòa Thượng cũng thường trú ở chùa Kim Sơn nên chúng tôi có nhiều cơ hội gần gũi cũng như được Ngài trực tiếp dạy bảo. Ngoài ra, Hòa Thượng cũng thường mời nhiều vị Pháp sư người Việt cũng như người Hoa đến chùa Kim Sơn để thuyết pháp, nên chúng tôi cũng có dịp được học hỏi thêm từ các Thầy khác.
Năm 1984, nhân dịp Sư Phụ làm lễ truyền quy y ở chùa Vạn Phật, tôi bèn dẫn hai cô con gái và đứa cháu đến để quy y với Ngài. Theo thủ tục thì người muốn quy y, trước phải điền đơn, viết tên họ, tuổi tác, địa chỉ… của họ và Hòa Thượng sẽ kiểm soát lại từng tờ đơn rồi mới đặt pháp danh cho từng người. Khi buổi lễ quy y kết thúc, Sư Phụ bèn phân phát giới điệp cho các giới tử. Lúc nhận bổn phái quy y, cô con gái lớn của tôi giật mình kinh ngạc vì thấy Hòa Thượng đã viết lại đúng tên thật của nó, mà nói rằng: “Con điền tên con trong tờ đơn là Cơ (có bộ nữ),( ) vầy mà bây giờ Sư Phụ viết lại là Cơ (bộ Kỳ và bộ thổ)( ) hay thiệt!” Chữ Cơ mà Sư Phụ viết đó mới chính là tên thật của cô ta. Tên này chính là tên mà cô được ông ngoại đặt cho. Ông ngoại cô đã từng nói với tôi rằng: “Vì nó thiếu đất (thổ) nên Ba mới đặt tên cho nó có bộ thổ vào đấy.” Đó cũng chính là cái tên mà con gái lớn tôi đã dùng trong hai mươi bảy năm qua. Hơn nữa, vốn là Hoa Kiều nên chúng tôi cũng cố gắng cho con cái học tiếng Hoa và cô con gái lớn nhất này cũng đã học hết bậc trung học. Như vậy thì không có lý do gì cô viết lầm tên mình. Nhưng vì trước đó cô nàng đã không tha thiết, chú trọng việc quy y. Thậm chí cô còn cố ý không muốn viết tên thật của mình! Đã vậy sau khi điền đơn quy y xong, cô còn ngồi thơ thẩn ở ngoài vườn hoa phía trước chánh điện mà không chịu vào Diên Sanh Đường để quy y. Tôi phải kêu năm lần bảy lượt cô ta mới chịu vào. Nhờ mắt thấy cớ sự như thế nên mới khiến cô nàng bắt đầu có lòng tín ngưỡng và khâm phục Sư Phụ.
Qua việc này, tôi nghĩ âu đó cũng là một giáo pháp kỳ đặc mà Hòa Thượng dùng để hóa độ và thức tỉnh những người không có niềm tin đối với Tam Bảo chẳng hạn như cô con gái tôi. Dù nay Sư Phụ đã không còn nữa, nhưng suốt khoảng thời gian quý báu được học hỏi với Ngài, cùng những sự việc xảy ra như trên, thử hỏi, làm sao mà chúng tôi có thể quên cho được! Tiếc thay, lúc đó chúng tôi đã không biết quý trọng những ngày tháng được gần gũi bên Ngài! Ôi, làm sao diễn tả hết được những công ân sâu dày của bậc Thầy kính yêu.
26) Sống bên Thầy
Richard Josephson (Quả Hàng)
Sau khi từ Ấn Độ trở về nước Mỹ, tôi đã đến trung tâm thiền Zen để tu tập, nhưng chỉ qua một tuần là tôi bắt đầu chán nản, vì tôi đã quen dụng công dũng mãnh hơn nhiều. Có một người ở đó nói với tôi về chùa Kim Sơn. Anh ấy bảo rằng ít ai đến Kim Sơn, bởi vì cách tu ở đó rất khó. Thế là hôm sau tôi bèn tìm đến chùa Kim Sơn. Khi đến nơi, trước hết là tôi thấy có bức ảnh Hòa Thượng Thượng Hư Hạ Vân được treo trên tường. Tôi dò hỏi về bức ảnh, thì được vị sư trong chùa nói, đó là vị thầy truyền thừa của Hòa Thượng Tuyên Hóa, nhưng chẳng may, Hòa Thượng đã đi Nam Mỹ (South American), có lẽ hai tháng sau mới trở về. Tôi nói, như vậy thì không có gì trở ngại cả. Rồi tôi chờ đợi cả hai tháng trời, ở chánh điện và ngủ dưới gầm cầu thang.
Trong những năm đầu ở chùa Kim Sơn, pháp hành của tôi là trì chú và quét dọn chùa. Đó cũng là cách mà tôi dụng công trong suốt mười năm ở với Sư Phụ.
Khó mà liên hệ sự hốt nhiên khai ngộ, hoặc không hốt nhiên khai ngộ với người khác được, bởi vì tác dụng giữa một thiền sinh thành thục và vị thầy (hay cảnh giới) thì có tánh cách cá nhân riêng biệt. Ví như Hòa Thượng Hư Vân đã đại ngộ khi chú thị giả vô tình rót trà nóng vào tay Ngài. Đó là do nhiều năm thángï tu tập, tâm Ngài đã chín mùi đến lúc khai ngộ. Đồng thời trạng thái tâm Ngài lúc bấy giờ duy chỉ có một mình Ngài nhận thức được thôi! Nếu không như vậy, thì ai ai một khi bị rót trà nóng vào tay, đều sẽ được khai ngộ hết sao? Vì không có hốt nhiên khai ngộ để chia sẻ, nên tôi muốn chia sẻ cái hốt nhiên không khai ngộ. Cái đau không giác ngộ, như cũng đang hình thành một phần quan trọng trong sự tu hành của tôi.
Có lần tôi viết trình lên Sư Phụ một công án thiền:
- Phật A Di Đà ngự ở cõi Tịnh Độ phương Tây, vậy thì làm sao gặp được Ngài khi hướng về phía Đông?
Lúc bấy giờ tôi có trách nhiệm quản lý thiền đường ở Kim Sơn và hằng ngày trong nhiều giờ tọa thiền, tôi luôn luôn xoay mặt về hướng Đông. Sự thắc mắc muốn hỏi Sư Phụ là xuất phát từ cõi lòng tôi, chớ không phải chơi trò “khẩu đầu thiền.”
Để thưởng thức câu giải đáp của Sư Phụ, quý vị phải biết sơ qua về căn phòng của Ngài trên lầu ba. Vách tường và trần nhà chùa Kim Sơn được chống đỡ bởi những lễ vật do các cư sĩ cúng dường, gồm hàngû ngàn cục xà bông và bàn chải đánh răng được chất thành đống ở khắp nơi và không theo một thứ tự nào cả. Khi quý vị đến phòng Sư Phụ, thường thì Ngài sẽ thò tay vào một trong những đống đồ để lấy một món gì đó cho quý vị. Sư Phụ không thể đọc các nhãn hiệu bằng tiếng Anh và chẳng bao giờ Ngài nhìn ngó đến. Thế mà, Ngài lấy đúng ngay món đồ mà quý vị đang cần dùng.
Trải vài tuần sau khi trình công án thiền và chờ đợi câu giải đáp của Sư Phụ, từ khi tôi trình câu hỏi đến Sư Phụ, tôi vẫn tiếp tục tọa thiền, chờ đợi Ngài trả lời. Rất tiếc là tôi đã không nhận ra khi chuyện bất ngờ xảy đến. Đó là một ngày mà tôi đang ngồi thiền một mình trong chánh điện. Thường lệ, mỗi khi Sư Phụ hướng nhìn tôi, là tôi có thể đứt đoạn sự thiền định. Lúc tôi ngồi thiền ở chánh điện, Ngài đã khiến tôi để ý đến sự hiện diện của Ngài đang từ phía đằng xa, gần bên văn phòng, đi về phía tôi. Trông Ngài có vẻ rất khác thường. Ngài không biểu lộ gì cả, trạng thái thâm trầm như xuất thần và cũng chẳng nhìn tôi. Nhưng khi đi ngang qua chỗ tôi ngồi, Ngài đưa cho tôi một cái bàn chải đánh răng. Sau đó Ngài tiếp tục đi nhiễu quanh tượng Phật, vẫn trong trạng thái thâm trầm như xuất thần, nhưng đi nhiễu Phật ngược chiều về phía tay trái. Khi đó chỉ có Sư Phụ và tôi trong chánh điện thôi. Tôi nhìn qua cái bàn chải, thấy không có gì là đặc biệt. Thế là tôi để nó phía dưới băng ghế ngồi thiền. Sư Phụ vẫn tiếp tục đi nhiễu Phật ngược chiều.
Một tuần sau trôi qua, tôi bèn có ý muốn xem lại cái bàn chải đánh răng một lần nữa. Sau đó tôi mới hiểu rõ, trái tim tôi như muốn rớt ra vì nhãn hiệu của bàn chải là: Dr. West (Bác sĩ hướng Tây.)
Một trong những giáo huấn quan trọng nhất của Sư Phụ là đừng chấp vào hình tướng của bất kỳ pháp môn tu tập nào. Là Phật tử thì không nên dính mắc vào sự “tướng” hay hình thức. Ngài đã giúp chúng tôi nhận ra mục đích cao cả về chuyện tu hành của chúng tôi. Khi Thầy Hằng Cụ lên đường đi bái hương một ngàn dặm để thăm mẹ, thì chỉ sau một ngày đã bị thất bại. Vì Thầy đã không có một động cơ thích đáng để duy trì chuyến bái hương. Trong thất bại, Thầy trở về chùa Kim Sơn. Sư Phụ đã nhẹ nhàng chỉ điểm và mở cho Thầy Hằng Cụ một tầm nhìn cao thượng và vị tha hơn, đó là: Bái hương chỉ vì hòa bình thế giới chớ không vì lợc lạc cho tự mình. Sau đó Thầy Hằng Cụ đã hoàn thành viên mãn chuyến bái hương, từ San Francisco đến Marblemount, Washington.
Bây giờ Sư Phụ đã không còn với chúng ta, thì bổn phận của chúng đệ tử nên quả quyết rằng Sư Phụ sẽ không trở thành - chỉ là một kỷ niệm. Riêng cá nhân tôi có một cảm giác sâu xa, là hiện nay chúng ta nên gấp rút hoằng dương Phật Pháp hơn như là tôi đã làm khi Sư Phụ còn với chúng ta. Sư Phụ đã tận tâm tận sức đeo mang ngọn đuốc (thân Ngài) để thực hiện hạnh Bồ Tát. Giờ đây Ngài truyền trao lại ngọn đuốc cho tất cả chúng ta. Đó không những chỉ là bổn phận người đệ tử nhận lãnh sứ mạng của Sư Phụ, mà cũng là cách tốt nhất để chúng ta có thể tỏ lòng tôn kính đối với vị Thầy của chúng ta.
Mỗi ngày chúng ta nên làm vài việc gì đó trong niềm danh dự của Sư Phụ và để cho hột giống đó nẩy mầm. Ngài đã dạy giáo Pháp cho chúng ta, những kẻ từng tiếp xúc với Ngài. Đây là cảm giác rất đặc biệt, rằng mỗi chúng ta cảm thấy là mình có trong lòng Ngài, và được truyền thừa giáo Pháp của Ngài. Chớ cố phán đoán về điều này, mà hãy để nó tiến thẳng vào chúng ta.
Nếu có người hỏi tôi trong mười năm sống gần bên Sư Phụ, điều gì quan trọng nhất mà tôi đã học được nơi Ngài?
Tôi sẽ trả lời:
- Tôi là một tín đồ Phật Giáo và có một niềm tin vững chắc trong Phật pháp. Khi tôi mới vào chùa Kim Sơn, quan niệm về sự được giác ngộ xem như rất xa vời, không thể có được. Tôi lại quan tâm hơn về chuyện chấm dứt những phiền não của cuộc đời này. Nhưng, sau mười năm sống bên Sư Phụ, chí nguyện của tôi đã thay đổi. Nay tôi hiểu rõ lý tưởng của Bồ Tát rằng: chính ta phải phát tâm tu hành để dứt sanh tử luân hồi, và Sư Phụ đã thúc đẩy chúng ta “làm những gì mà người khác không thể làm,” để chúng ta có kinh nghiệm hiểu biết về chân lý của đạo Phật, hơn chỉ là một nhà trí thức. Tất cả những ý tưởng hằng ngày của tôi đan dệt bằng sợi chỉ Phật giáo. Sợi chỉ này kết giữ tấm vải về con người tôi lại với nhau, cùng với Sư Phụ trong trái tim tôi. Sự tin chắc, tôi là Phật tử thì không thể nào lay động được.
27) BỒ TÁT TỪ BI
Thích Hằng Thọ
Trong những ngày đầu xuân năm 1974, khi tôi còn ở Hồng Kông tại Giảng Đường Phật giáo, cũng là lúc Sư phụ vừa trở lại sau nhiều năm ở Mỹ.
Sư phụ trở về Hồng Kông không lâu thì các đệ tử thỉnh cầu Ngài làm lễ phóng sanh ở chùa Tây Lạc Viên. Nơi này là một trong các đạo tràng Sư phụ đã kiến lập từ những năm trước. Tôi cùng với hai sư huynh đệ lo giúp việc tụng niệm và đánh chuông mõ. Trong khi đó Sư Phụ hướng dẫn buổi lễ với số Phật tử tham gia đông đúc. Loài thú vật được phóng sanh hôm đó là loại chim cúc mà người Hoa thường lấy thịt để xào nấu làm thức ăn. Pháp hội vừa được tiến hành không lâu, đến khi tôi quay đầu lại quan sát bữa lễ thì thấy Sư Phụ đứng gần lồng chim. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy Ngài chảy nước mắt nhưng không lộ vẻ khổ đau. Thật ra sắc mặt Ngài hầu như vẫn bình tĩnh và hài hòa. Nhưng rõ ràng là vậy, tôi đâu có lầm lẫn được, vì Ngài đang khóc mà! Tôi như có phần ngơ ngác!
Từ lúc gặp Sư Phụ vào đầu mùa hè 1968, tôi đã từng chứng kiến những lúc Ngài làm việc. Ngài có những biểu lộ tình cảm hầu như là của một vị Bồ Tát và một vị Thầy tinh thần. Tôi thấy Ngài nói chuyện rất êm dịu đối với những đệ tử nhút nhát. Giọng nói Ngài dỗ dành nhỏ nhẹ như tiếng của chú mèo con. Tôi cũng đã thấy Ngài gắt gỏng với giọng đầy oai quyền đối với đệ tử nào có tánh tình cao ngạo. Những lúc đó tiếng Ngài vang dội nghe dễ sợ như tiếng gầm vang của sư tử vậy. Có khi Ngài kể chuyện vui để làm vơi bớt phiền muộn cho những ai có khí sắc quá ưu sầu. Lắm lúc Ngài cũng nghiêm khắc phản tỉnh những kẻ lơ đễnh nông nổi đã không để ý đến các chi tiết quan trọng. Có khi sự hiện diện vui tươi của Ngài cũng đã khiến mọi người cảm nhận được niềm vui hạnh phúc, mặc dù Ngài chẳng nói một lời nào. Có lúc Ngài tỏ thái độ rất nghiêm nghị, khiến những người hiện diện tự nhiên cảm thấy được sự oai nghiêm, trang trọng.
Nhưng dù sao tôi cũng đã thấy qua những “tình cảm” như thế của Sư Phụ, cũng như đã thể hiện trong nhiều sự chuyển đổi khác nhau. Nhưng tôi chưa bao giờ thấy Sư Phụ khóc qua. Tôi cảm thấy bối rối hơn vì đã chứng kiến cảnh này. Nhưng dĩ nhiên là tôi phải tiếp tục tụng niệm và đánh mõ trong suốt khóa lễ. Khi lễ phóng sanh kết thúc, tôi quay lại nhìn Sư Phụ một lần nữa, thì thấy Ngài tươi cười qua làn nước mắt lưng tròng. Không phải chỉ mình tôi mới thấy Sư Phụ rơi nước mắt, mà thật ra tôi nghĩ thì hầu như mọi người cũng đều bối rối như tôi thôi. Sau đó Ngài giải thích đại khái, tôi xin lập lại nguyên văn như sau:
“Có một số người thấy tôi khóc khi cử hành lễ phóng sanh và chắc quý vị cũng lấy làm thắc mắc không biết tại sao? Để tôi nói cho quý vị biết lý do làm tôi xúc động. Bởi trong số các con chim được thả đây, có một con vốn là đệ tử xuất gia của tôi ở kiếp trước. Nhưng vì đi lầm đường lạc lối, đi xa đến nỗi bây giờ bị đọa làm kiếp chim. Cho nên hôm nay gặp gỡ trong tình cảnh này, khiến tôi không khỏi bùi ngùi xót thương rơi lệ.”
Buổi lễ phóng sanh tại chùa Tây Lạc Viên là một kinh nghiệm không bao giờ quên được trong tâm tôi. Ngài đã rơi lệ trước nghiệp lực buộc ràng một đệ tử của mình. Điều đó chứng tỏ lòng lo lắng thật sâu xa của Ngài đối với chúng đệ tử. Sự rơi nước mắt vì con chim nhỏ, đã cho tôi thấy tấm lòng từ bi của Sư Phụ thật thắm thiết bao la, rộng khắp đến tất cả chúng sanh.
http://www.chuakimquang.com/vn/Tu-Lieu/Phap-Nhu-Tham-An/Phap-Nhu-Tham-An/
VnVista I-Shine
© http://vnvista.com