CHÂU U VƯƠNG - NỔI LỬA “ĐÀI TIN” TRÊU GẠT CHƯ HẦU
Năm 781-771 trước Tây lịch
(Bản Hoa ngữ)
Châu U Vương họ Cơ, tên Cung Niết, là một hôn quân mất nước thời Tây Chu. Ông được nước Bao (Còn gọi là "Hữu Bao", Tên một nước chư hầu của Trung Hoa thời cổ đại, nay thuộc huyện Miễn, tỉnh Thiểm Tây, Trung Hoa) hiến tặng một mỹ nữ tên Bao Tự, một cô gái tuy rất xinh đẹp nhưng chưa bao giờ nở nụ cười. U Vương rất sủng ái Bao Tự nên tìm đủ mọi cách để mong có được nụ cười của nàng nhưng cuối cùng vẫn không được như ý nguyện. Có người hiến kế rằng: “Thiên hạ đã thái bình, các đài lửa báo tin cũng đã tắt hết, nếu như nay cho khói lửa nổi lên trên đài báo tin, các nước chư hầu sẽ lập tức kéo binh đến, bấy giờ hoàng hậu nhất định sẽ cười”. Thế là, U Vương liền cho nổi khói mịt mù trên đài báo, quân chư hầu thấy thế nghĩ là U Vương đang có nạn, liền tức tốc kéo quân ứng cứu. Bao Tự vừa thấy cảnh ngàn vạn binh mã khí thế hùng hổ kéo đến, bèn thích thú nhoẻn miệng cười. Đến nơi, quân chư hầu bèn hỏi U Vương: “Đã xãy ra chuyện gì?” Vương đáp rằng: “Chỉ vì muốn hoàng hậu cười thôi”. Chư hầu đành tức giận ra về.
Về sau, Thân Hầu mượn quân của Khuyển Nhung tiến đánh U Vương, lần này Vương cho nổi lửa đài báo, thế nhưng không một bóng quân chư hầu nào đến giúp. Cuối cùng Vương thất trận bị giết ở núi Li. Tây Chu bị diệt vong, Đông Chu thành lập, kiến nghiệp tại Lạc Dương
Lời bình rằng:
Mạo mỹ tâm độc
Ngộ quốc hại phu
U Vương vô đạo
Bao Tự nhược hồ
Thái bình cử hỏa
Hý lộng chư hầu
Kỳ bác nhất tiếu
Giang sơn tùy hưu.
Diễn thơ:
Dung mạo nàng tợ Hằng Nga
Mà lòng ác độc gian tà lắm thay!
Hại chồng mất nước xương bày.
U Vương vô đạo đắm say sắc tình.
Thái bình nỗi lửa “đài tin”
Mượn hầu diễn kịch mượn binh mua cười.
Khổ thay thiên hạ ngậm ngùi!
Giang sơn theo đó thay ngôi đổi đời .
Lại có kệ rằng:
Đao thương nhập khố khánh thăng bình
Mã phóng nam san thiên địa tình
Hý lộng chư hầu cử phong hỏa
Chuyên sũng Bao Tự tiếu mục nghinh
Hôn quân vong quốc giai như thử
Anh hùng sáng nghiệp dị tục lưu
Tự cổ mỹ nữ danh họa thủy
Khuynh quốc khuynh thành vị đa tình
Diễn thơ:
Nước dẹp binh đao hưởng thái bình
Ngựa thả núi Nam trời đất an.
Nỗi lửa pháo đài hầu hối hả
Chỉ vì Bao Tự nụ cười xinh
Hôn quân mất nước đời thán oán
Anh Hùng lập quốc thế hoan nghinh.
Mỹ nữ muôn đời là tai họa
Nước mất, thành nghiêng bởi chữ tình.
PHẦN GIẢI THÍCH
Thủy Kính Hồi Thiên Lục được viết với bút pháp của thời Xuân Thu, Những nhân vật tốt thì giống như những khuôn phép mà chúng ta có thể học theo và bắt chước theo; những nhân vật xấu ác thì như những lời răn đe mà chúng ta cần phải ngăn chừa, cân nhắc những thói hư xấu ác kia của họ. Người tốt hay người xấu đều là những tấm gương cho chúng ta học hỏi, tốt thì có gương tốt, xấu thì có gương xấu. Do đó nên chúng tôi lấy những cái tốt nhất và những cái xấu nhất xưa nay để trình bày cùng quý vị nghe.
Hôm nay giảng đến Châu U Vương, vua họ Cơ, tên Cung Niết, là hôn quân mất nước thời Tây Chu, đã để giang sơn rơi vào tay người khác. Tại sao vị hôn quân này người ta gọi là U Vương? U có nghĩa là không sáng suốt, không có trí tuệ, là một ông vua ngu xuẩn; Vương đã không có được cái nhìn chân chính minh bạch, lại còn tà tri tà kiến. Thời đó, người nước Bao dùng kế hiến cho Vương một mỹ nữ tên Bao Tự, một người con gái sắc đẹp lộng lẫy phi thường, nhưng lòng dạ vô cùng độc ác. Bởi vì Bao Tự mang dòng máu của loài rồng độc; cái độc ác của Bao Tự là làm cho giang sơn Đại Châu mất vào tay kẻ khác. U Vương rất sủng ái Bao Tự, nàng muốn gì U Vương cũng đồng ý, nói gì U Vương cũng nghe theo, làm gì U Vương cũng hết mực nuông chiều.
Thế nhưng tính tình của người con gái này rất quái lạ, suốt ngày nét mặt đăm chiêu, không bao giờ cười. U Vương thấy thế, muốn cho Bao tự có được nét mặt vui tươi, nên đã tìm trăm phương ngàn cách chỉ để khiến cho Bao tự vui cười, nhưng đều không có kết quả. Thế rồi có người hiến kế rằng: “Đất nước đang trong thời thái bình, đã lâu chưa phóng lửa ở đài báo tin; nếu như bệ hạ cho đài tin nổi lửa lên, quân chư hầu sẽ kéo đến, lúc ấy hoàng hậu sẽ rất vui”. Phong hỏa (đốt lửa báo tin) là tín hiệu báo tin của người Trung Hoa xưa. Giả như có việc gấp cần báo tin cho nhau, bởi vì các địa phương cách nhau rất xa, nếu như cưỡi ngựa đi báo tin thì cũng phải rất lâu mới đưa được tin báo đến với các nơi. Trong khi đó nếu nổi tín hiệu khói “lang yên”(*) lên, người ta nói rằng “lang yên” là dùng từ phân loài sói, phân sói mà đốt lên thì khói bay nghi ngút và bay lên rất cao, người ở xa ngoài vài mươi dặm cũng có thế nhìn thấy, do đó người xưa dùng “lang yên” để làm tín hiệu báo tin lúc gặp nguy hiểm, như có việc nguy cấp thì đốt khói phân sói lên để báo tin cho các nước chư hầu, gọi họ mang binh đến giải nguy cứu chúa.
Thế nhưng, U Vương không hề hiểu rằng, đây là một việc hết sức quan trọng, không thể tùy tiện mang ra đùa giởn với chư hầu; U Vương cứ theo kế nói trên mà làm, thế là lửa báo động đã được châm lên trên hỏa đài. Ngọn lửa vừa được châm lên, quân chư hầu trông thấy, đều nghĩ là hoàng đế đang gặp việc nguy cấp liền kéo binh đến kinh thành cứu giúp. Việc cứu binh như cứu lửa, quân chư hầu hùng hổ tiến binh về kinh thành để cứu nguy, nhưng vừa đến nơi thì thấy chẳng có chuyện gì xảy ra ngoài U Vương và Bao Tự đang đứng trên thành cười ha hả.
Quân chư hầu mới hỏi U Vương rằng: “Ngài nổi khói ở đài tin, rốt cuộc là chuyện gì cấp báo chăng?” Vương trả lời: “Chẳng có chuyện gì cả, từ lâu được sống trong cảnh thái bình, đây cũng là một cách huấn luyện binh mã của chúng ta. Thôi thì chư vị đã đến đây, xem như mọi người cùng gặp mặt vậy, nàng Bao Tự của ta cũng được vui rồi; ta chỉ nghĩ cách làm cho Bao Tự vui, nên đã mời chư vị đến đây, chúng ta cùng họp mặt một lúc.” Nghe thế chư hầu mới vỡ lẻ rằng đây đúng là một trò đùa quá lố đối với bọn họ, chẳng xem bọn họ ra gì, nên đã kéo binh về hết.
Việc quân chư hầu kéo nhau ra về cũng chẳng có gì đáng nói, nhưng về sau thật đã có việc nguy cấp xảy ra, Thân Hầu mượn binh Khuyển Nhung kéo đến gây chiến với U Vương(1), sức quân của U Vương không đủ để kháng cự, mà giờ đây cũng không thể nhờ binh cứu viện của quân chư hầu nữa, thế nên U Vương đành phải tự mình chịu trận. Cuối cùng không thể địch nỗi quân Thân Hầu và Khuyển Nhung, U Vương bại trận và chết ở núi Li, Bao Tự bị bắt; kinh thành bị chiếm, Tây Chu đến đây bị diệt vong, kinh đô được dời về đông ở Lạc Dương, xưng là Đông Chu.
Bàn Về Châu U Vương, từ Chữ “U” này chúng ta cũng hiểu được rằng đây là một hôn quân, việc gì cũng không rõ ràng, không hiểu biết, chỉ biết nghĩ đến việc muốn làm tỉnh trưởng, làm hoàng đế, làm tổng thống, chỉ biết nuông chiều người đẹp Bao Tự, và thế là đã đánh mất cả thiên hạ.
Lời bình:
Mạo mỹ tâm độc, ngộ Quốc hại Phu: Bao Tự tuy tướng mạo rất xinh đẹp nhưng trong lòng thì vô cùng độc ác. Bao Tự bất chấp sự an nguy của quốc gia, còn hại đến chồng mình.
U Vương vô đạo, Bao Tự nhược hồ: Châu U Vương là một hôn quân vô đạo, không biết cách lãnh đạo đất nước; Bao Tự lại là một con cáo già, không hề biểu lộ được một nét gì ngay thẳng.
Thái bình cử hỏa, hý lộng Chư Hầu: Đang lúc thái bình lại cho đốt lửa báo hiệu; U Vương đã lấy việc này ra làm trò đùa để trêu gạt chư hầu.
Thị bác nhất tiếu, giang sơn tùy hưu: Cũng vì tìm một nụ cười của Bao Tự; U Vương đã đánh mất cả giang sơn.
Lại có kệ rằng:
Đao thương nhập khố khánh thăng bình (Thương giáo vào kho vui thái bình): Trong thời ấy vốn là rất thái bình, nên nói “Đao thương cất vào kho, ngựa thả ở núi Nam”.
Mã phóng nam san thiên địa tình (Thả ngựa ở núi nam đất trời quang đãng): Đất trời quang đãng, đây là biểu thị của thời không có tai nạn, những con ngựa chiến được thả trên những đồng cỏ xanh tốt ở núi phía Nam.
Hý lộng chư hầu cử phong hỏa (Trêu gạt chư hầu nỗi lửa đài tin): Thế nhưng, U Vương chỉ vì có được tiếng cười của Bao Tự đã đốt lửa đài tin để trêu gạt chư hầu.
Chuyên sũng Bao Tự tiếu mục nghinh (Sũng ái Bao Tự dùng tiếng cười khinh miệt đón chư hầu): Khi thấy quân chư hầu kéo đến Bao Tự đã cười một cách thỏa thích, gương mặt vui cười đón quân chư hầu dáng vẻ đầy nham hiểm.
Hôn quân vong quốc giai như thử (Hôn quân mất nước đều như thế): Xưa nay các vị hôn quân đều như thế cả, vì ham mê tửu sắc mà nước mất nhà tan.
Anh hùng sáng nghiệp dị tục lưu (Anh hung làm nên sự nghiệp đều là kẻ hơn người): Bậc anh hùng xuất chúng đúng nghĩa, kẻ đại trượng phu, thì không hề giống như người bình thường u mê vô dụng như thế.
Tự cổ mỹ nữ danh họa thủy (Từ xưa người con gái đẹp đều là mối tai họa): Từ xưa biết bao hôn quân đã vì sắc đẹp mà mất nước, bởi vậy câu “Nữ nhân thị họa thủy” đã trở thành câu tục ngữ của người Trung Hoa.
Khuynh quốc khuynh thành vị đa tình (Nghiêng nước nghiêng thành bởi thói đa tình): Thói đa tình của Bao Tự đã khiến cho U Vương này mê mẫn mà không còn biết gì khác, chỉ còn biết tham tửu sắc, vì thế đã làm cho đất nước mất luôn.
Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng vào ngày 03-10-1987
Chú thích:
(*)Theo một cách giải thích khác thì cho rằng: ngày xưa người ta xem quân Hung Nô, Đột Quyết, Thổ Phan như là những đội quân lang sói (một kiểu tôn sùng loài sói làm vật thiêng), do đó mà còn gọi là lang chúa hay lang binh. Mỗi khi các đội quân này xuất hiện thì việc đốt lửa làm tín hiệu với ý rằng quân lang sói đang tiến đến. Theo cách lý giải này thì đã bác bỏ việc đốt phân sói thực tế sẽ không có chuyện khói nhiều và khói lên cao vút như cách giải thích truyền thống. (Chúng tôi trong khi dịch đã sưu tầm và chú thích thêm để đọc giả cùng tham khảo).
(1): Tại sao Thân Hầu lại mượn quân Khuyển Nhung để đánh Châu U Vương? Bởi vì Châu U Vương sủng ái Bao Tự quá mức, mà phế bỏ hoàng hậu Thân Hậu, còn đuổi thái tử con của hoàng hậu ra khỏi cung, rồi lập Bao Tự lên ngôi hoàng hậu, lập con của Bao Tự là Bá Phục lên thái tử. Thêm vào đó U Vương nỗi lửa đài tin đùa cợt chư hầu, lại bao bọc tin tưởng vào ông quan sàm nịnh xảo trá Thạch Phụ, những yếu tố đó đã khiến thân phụ của Thân Hầu nỗi giận, bèn mượn quân Khuyển Nhung đánh phạt Châu U Vương.
TẦN THUỶ HOÀNG - HOÀNG ĐẾ TÀN BẠO ĐỘC TÀI CHUYÊN CHẾ
(Bản Hoa ngữ)
Tần Thủy Hoàng họ Doanh tên Chính, là một ông vua độc tài bạo ác, đã thôn tính sáu nước và thống nhất Hoa Hạ, phong Lý Tư làm thừa tướng, thực thi chế độ tập trung quyền lực ở cấp trung ương, phế bỏ phong kiến, lập ra các quận huyện để cai trị. Tần hoàng tự cho mình là người có công hơn cả Tam hoàng, có đức hơn cả Ngũ đế, rồi tự xưng mình là hoàng đế đầu tiên của Trung Hoa. Ông đã ra lệnh đốt sách và chôn học trò, thực hiện chính sách ngu dân nô dịch; cho xây Vạn lý trường thành để ngăn chặn giặc Hồ; dựng cung A Phòng dài hơn ba trăm dặm, làm khổ nhân dân, tổn hao tiền của, nỗi cùng cực không thể nói thành lời. Tần Thủy Hoàng còn cho chế tạo vũ khí bằng sắt, đúc tượng người bằng đồng; bắt sửa chữ viết, thay đổi y phục, xe cộ và các chỉ số cân đo đong đếm v.v.. toàn quốc đều phải nhất trí thực hiện theo. Tần Thủy Hoàng đã lập nên một đại đế quốc đầu tiên của Trung Hoa, áp đặt thuế má nặng nề, làm cho nhân dân phải sống trong cảnh khốn khổ lầm than.
Lúc bấy giờ vua A-dục bên nước Thiên Trúc phái đoàn sa-môn, có ngài Thất-lị-phòng, gồm mười tám vị đến nước Chấn Đán (tên người Ấn Độ dùng để gọi nước Trung Hoa ngày xưa) để truyền bá Phật giáo. Tần Thủy Hoàng thấy các vị sa-môn sắc phục khác lạ nên đã bắt giam họ, đêm đến có một vị thần thân sắc vàng cao một trượng sáu đến phá ngục cứu các vị sa-môn. Tần đế biết được việc này sanh lòng sợ hãi, bèn đãnh lễ tạ lỗi rồi ban hậu lễ để ban tặng các vị sa-môn.
Lời bình:
Hiếu đại hỷ công
Chiến tranh lữ hưng
Chuyên chế độc tài
Thôn lục quốc binh
Tung hoành cuồng vọng
Tự khoa sính năng
Ngũ đế Tam hoàng
Bất nguyện tịnh hành
Diễn thơ:
Thủy Hoàng tham lợi chuộng danh
Khởi binh tác chiến máu thành biển sông
Chuyên quyền độc đoán cướp công
Gồm thâu sáu nước về vòng tay ta
Hung hăng cuồng bạo vọng tà
Tự cao ngã mạn ngợi ca mình tài
Tam Hoàng Ngũ Đế quốc khai
Chẳng noi gương đức lại hoài miệt khinh.
Lại có kệ rằng:
Bạo ngược vô đạo nhất kiêu hùng
Hổ đầu nhân thân quái yêu tinh
Thực tận thế nhân lưu bạch cốt
Trảm tuyệt thương sanh nhiễm huyết tinh
Vạn lý trường thành điếu cổ tích
Thiên kiếp cự khanh hận nan bình
Doanh Tần thế lực kim hà vãng
Thả khứ nhật bổn vấn ngư ông.
Diễn thơ
Thủy Hoàng hung bạo lại kiêu căng
Thân người đầu hổ tợ yêu tinh
Ăn thịt thế nhân chừa xương trắng
Giết người máu nhuộm chẳng thương tình
Vạn Lý Trường Thành ghi dấu hận
Ngàn sau tiếng oán khó san bằng
Doanh Tần thế lực nay đâu nhỉ!
Ngư ông xứ Nhật rõ tường tình.
Nói đến Tần Thủy Hoàng, thì trong số các vị hoàng đế Trung Hoa từ xưa đến nay không ai tàn bạo bằng ông. Ông họ Doanh, tên Chính, từ nhỏ đã có nhiều điều đặc biệt khác thường, ông vô cùng thông minh nhưng cũng rất ngang ngược, nên có thể nói, Tần Thủy Hoàng là một bậc anh hùng đầy mưu lược cũng là một ông vua độc đoán bạo ngược. Vua Tần lấy sự anh hùng của mình để tạo thời thế và cũng biết chọn thời thế để tạo anh hùng cho chính mình. Lúc bấy giờ Trung Hoa gồm có các nước nhỏ như: Tề, Sở, Yến, Hàn, Triệu, Ngụy, Tần, gọi là “Thất hùng”. Thế lực của các nước Thất hùng đều ngang nhau, nhưng Doanh Chính đã có thể trong tình hình thế lực cân bằng ấy mà mang quân đánh chiếm và chinh phục luôn cả sáu nước kia, gọi là “Thôn tính sáu nước” chính là để chỉ còn lại một nước Tần của Doanh Chính mà thôi. Nhưng sáu nước kia có phải là do Tần Thủy Hoàng thôn tính không? Không phải thế đâu. Người xưa nói: “Diệt lục quốc giả, lục quốc dã, phi Tần dã; vong Tần giả, Tần dã, phi lục quốc dã” (Người tiêu diệt sáu nước, chính là tự thân sáu nước, chứ không phải nước Tần tiêu diệt; người làm mất nước Tần, chính là tự thân nước Tần, chứ không phải do sáu nước). Nhìn vào thì thấy là Tần đã tiêu diệt sáu nước, thực ra chính do sáu nước ấy tự tiêu diệt mình, không phải do nước Tần tiêu diệt họ. Bởi vì, nếu sáu nước kia biết tự đứng lên, biết làm mạnh nước mình, khéo cai trị đất nước thì nước Tần cũng không có cách để tiêu diệt. Cũng chính vì sáu nước kia hoang dâm vô đạo không lo việc quốc gia, thiết lập quốc phòng, thế nên đã bị Tần nhân cơ hội đó mang quân đánh chiếm. Do vậy mới nói nói: “Người tiêu diệt sáu nước, chính là tự thân sáu nước, chứ không phải nước Tần”
Tần Thủy Hoàng tuy là tự là xưng hoàng đế, và còn cho rằng có thể truyền ngôi đế vương lại cho đời con, đời cháu, đời chắt, đời chít, đời đời truyền nhau…cho đến vạn đời, vạn vạn đời đều là hoàng đế (1), nhưng có ai ngờ rằng đến đời con của Tần Thủy Hoàng thì thiên hạ đã rơi vào tay người khác. Bởi vua Tần làm khổ muôn dân phá hoại tài sản, làm cho người dân chịu cảnh khốn cùng, nên phần đông đã sanh lòng bất mãn, thế nhưng vua Tần đã dùng những thủ đoạn rất độc ác, thời ấy không ai có thể ngăn cản được. Đợi đến đời con của Tần Thủy Hoàng là Hồ Hợi lên ngôi thì sự đối kháng phản loạn bắt đầu nổi lên. Hai nước Hán, Sở tranh đấu nhau để giành quyền đế vương, và như thế đã làm cho đất nước từng được thống nhất rơi lại vào cảnh loạn lạc, triều đại nhà Tần bị diệt vong. Đây cũng chính là “Kẻ làm mất nước Tần, chính là nhà Tần, chứ không phải là sáu nước”. Thế nên mọi việc giữa cuộc đời này không có gì là bền chắc cả, ngay cả giang san của hoàng đế cũng không giữ được, huống chi chút ít tài sản của chúng ta, có đáng là gì đâu chứ?
Tần Thủy Hoàng sau khi đã tóm thâu được sáu nước, thống nhất Hoa Hạ và từ đó nước Trung Hoa có chung một bản đồ, không còn phân chia nhiều nước nữa. Thủy Hoàng phong cho Lý Tư (2) làm thừa tướng, rồi nghe theo lời đề nghị của Lý Tư, tập trung hết quyền lực vào cấp trung ương, thực thi chính sách tập quyền trung ương đao to búa lớn ngang nhiên sát phạt, phế bỏ chế độ phong kiến, lập ra quận huyện, toàn bộ quyền lực đều do trung ương nắm giữ và không còn tồn tại các nước chư hầu nữa. Do dưới triều đại nhà Chu chư hầu được triều đình phong đất và có thể tự quản lý từng lãnh địa của mình, triều đình tự kiến lập một vương quốc riêng, nhưng rốt cuộc thì các nước chư hầu lại không nghe theo những hiệu lệnh của nhà vua, ai cũng mang tâm muốn giành quyền làm chủ thiên hạ. Tần Thủy Hoàng đã dẹp bỏ chế độ chư hầu này, chia cả nước ra làm 36 quận, mỗi quận có người đứng đầu do trung ương phái đến, mọi việc đều nghe theo sắc lịnh của trung ương. Thường thì người làm quan, quyền lực rất hạn chế, ít quyền lực thì không có cơ hội tạo phản triều đình. Làm được những điều này, Tần Thủy Hoàng đã tự nhận công lao của mình vượt qua cả “Tam Hoàng” (Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng), còn đức hạnh thì cao hơn “Ngũ Đế” (Hiên Viên Hoàng Đế, Chuyên Húc Huyền Đế, Tuấn Đế Cốc, Phóng Quân Đế Nghiêu và Trọng Hoa Đế Vũ), cho nên tự xưng mình là vị hoàng đế đầu tiên - “Thủy Hoàng Đế”.
Vua Tần lại thực hiện theo chính sách hết sức kỳ quái do thừa tướng Lý Tư đưa ra — đốt sách chôn học trò, đem toàn bộ các loại thư tịch, bao gồm các loại kinh điển cho đến những tác phẩm của bách gia chư tử (chư Tử là chỉ cho Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Mặc Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử; bách Gia là chỉ cho các trường phái học thuật cổ điển của Trung Hoa như Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Danh gia, Pháp gia…) đều đem ra thiêu hủy sạch, chỉ để lại một số sách có thể cần dùng đến như sách y dược, bói toán, trồng trọt …; rồi cho đào hầm lớn đem chôn sống tất cả những người có học. Quý vị xem, đến người có học thức cũng đều trở thành kẻ phạm tội! Bởi Thủy Hoàng lo sợ nhân dân chê trách mình, bất mãn với mình rồi đứng lên tạo phản, nên đã thực thi chính sách làm ngu dân, biến họ thành những kẻ tôi tớ (3).
Lo sợ các nước lân bang xâm lược,Tần Thủy Hoàng đã cho xây dựng Vạn Lý Trường Thành để đối phó với giặc Hồ ở phương Bắc; người Hồ, thời ấy bao gồm những dân tộc của các nước ở phía đông và phía Tây giáp với biên giới Trung Hoa như: Mông Cổ, Liên Xô, Cao ly và Nhật Bản v.v…Để xây dựng công trình Vạn Lý Trường Thành này, phải cần đến công sức và tài sản của nhân dân, thế là người dân phải hứng chịu bao khổ sở! Chỉ mỗi việc xây Vạn Lý Trường Thành thôi mà đã có biết bao nhiêu sinh linh đã ngã xuống; thế nhưng vua Tần cũng không màng đến, cứ thản nhiên xây dựng Vạn Lý Trường Thành cho đến khi hoàn tất.
Bạo Chúa Tần Thủy Hoàng lại tiếp tục bắt nhân dân làm nô dịch, xây dựng cung A Phòng. Cung A Phòng được kiến trúc rất quy mô, phòng lầu san sát, tất cả đều được chạm trổ với những nét điêu khắc và hoa văn rất độc đáo với diện tích chiếm hơn ba trăm dặm tương đương một trăm năm mươi dặm Anh. Các công trình xây dựng hiện đại ngày nay, dù quy mô đến mấy cũng không sao sánh được với Cung A Phòng. Tuy Tần Thủy Hoàng đã kiến tạo nên công trình vĩ đại như thế, nhưng cũng không cách nào giữ mãi được, cung A Phòng sau đó cũng đã bị Sở Bá Vương thiêu rụi thành tro bụi. Cho nên, Đạo Phật đã dạy rằng, tất cả đều là vô thường, đây là một chân lý không sai chạy được.
Tần Thủy Hoàng chỉ lo làm theo những điều mình thích, rồi bày ra đủ loại thuế má để vơ vét tài sản nhân dân, khiến cho dân lành càng thêm đói khổ. Bao nhiêu sắt đồng đều gom về Hàm Dương cho nấu chảy ra và đúc thành rất nhiều quả chuông lớn và kim nhân (còn gọi là đồng nhân tức người đồng), mỗi kim nhân nặng đến một tấn (千石 ‘Thiên thạch’: hai mươi vạn cân Tàu tương đương một ngàn kilogram), đem đặt ở cửa cung. Vua Tần nghĩ, người dân không có binh khí thì không thể tạo phản được, cách làm này là một kế thật tuyệt, để giang sơn mãi vững chắc, để đời đời cháu con đều có thể làm hoàng đế! Thế nhưng ông vẫn chưa an tâm, Tần Thủy Hoàng còn cưỡng bức mười hai vạn gia đình phú hộ lắm tiền trên khắp cả nước chuyển đến kinh đô Hàm Dương để gần gũi tiện giám sát.
Tần Thủy Hoàng còn cho sửa đổi chữ viết, y phục, xe cộ, dụng cụ cân đo.v.v..thống nhất thành một thể. Riêng về phương diện thống nhất văn tự, Tần Thủy Hoàng được xem là người có một chút công lao. Đến như tiếng nói của Trung Hoa, hiện nay được xem như đã thống nhất, chứ thời xưa ngôn ngữ Trung Hoa có tiếng Quảng Đông, tiếng Phước Kiến, tiếng Ninh Ba, tiếng Hồ Nam, tiếng Hồ Bắc…mỗi xứ đều có tiếng nói riêng rất khó nghe hiểu, cũng không thể giao lưu với nhau, bây giờ có thể đã cải thiện rất nhiều.
Tần Thủy Hoàng hễ muốn gì là làm nấy, đặt ra đủ loại thuế má nặng nề, khiến cho dân lành vô cùng khốn khó, ông xây dựng một chế độ đại đế quốc quy mô từ xưa chưa hề có. Cũng trong khoảng thời gian đó, tương đương với thời vua A Dục bên Ấn Độ. Vua A Dục đã cho xây dựng rất nhiều tháp xá-lợi Phật, vua còn phái các vị Phạm tăng (Cách người Trung Hoa gọi các vị xuất gia Ấn Độ) như Thất-lị-phòng gồm mười tám vị đến Trung Hoa truyền bá Phật Pháp. Tần Thủy Hoàng truyền lệnh mời các vị tăng Ấn Độ vào cung, vừa trông thấy các sư ăn mặc khác lạ, tiếng nói lại khó hiểu, liền ra lệnh bắt nhốt tất cả các nhà sư Ấn Độ vào ngục. Nhưng đến lúc trời tối, có vị thần mình mặc giáp vàng cao một trượng sáu, đến mở cửa ngục cứu các vị sư ra. Tần Thủy Hoàng biết được việc này nên vô cùng kinh sợ, liền cúi đầu tạ tội, lại còn dâng tặng rất nhiều lễ vật, châu báu, sản vật quý hiếm của Trung Hoa, sau đó đưa họ đến biên giới trở về Ấn Độ. Đó là lần đầu tiên Phật giáo được truyền đến Trung Hoa, chỉ tiếc là lúc ấy Tần Thủy Hoàng đã không cho phép các vị Sa Môn lưu lại Trung Hoa để truyền bá Phật Giáo, mãi cho đến Triều Đại Nhà Hán (Hán Minh Đế) Phật Giáo mới chính thức được truyền bá vào Trung Hoa. Điều này cũng bởi vì thời cơ chưa đến, nên nhân duyên chưa chín mùi, thế nên trong thời Tần Thủy Hoàng, nhân dân Trung Hoa vẫn chưa thể đón nhận được ánh sáng Phật Pháp.
Bây giờ chúng ta cùng bình luận một chút về Nhân vật Tần Thủy Hoàng:
Hiếu Đại Hỷ công, Chiến tranh lữ hưng: Tần Thủy Hoàng là người thích lớn ham công. “Hiếu đại” có nghĩa là làm gì cũng thích vĩ đại, cho nên quý vị hãy xem ông ta xây Vạn Lý Trường Thành dài và rộng như thế. Bên trên Vạn Lý Trường Thành có thể làm được ba dòng xe chạy. Ông còn xây dựng cung A Phòng rộng hơn ba trăm dặm, và không ngừng mang binh đánh nhau, chinh phạt đối phương, để chiếm lấy binh sĩ đất đai của kẻ khác đem về cho mình.
Chuyên chế độc tài, Thôn lục quốc binh: Tần Thủy Hoàng vừa chuyên chế, vừa độc tài, tiêu diệt sáu nước để tóm thâu quyền lực vào tay của mình.
Tung hoành cuồng vọng, Tự khoa sính năng: Tần Thủy Hoàng là không tuân thủ theo quy luật chung, cố tình thích làm theo ý nghĩ của riêng mình… tung hoành dọc ngang thiên hạ, chẳng kiêng nể một ai. Ông lại tự tôn vinh, ca ngợi và tán thán chính mình, tự nhận công lao của mình to lớn hơn cả “Tam Hoàng”, đức lớn hơn cả “Ngũ Đế”, xem ai cũng không bằng mình.
Ngũ Đế Tam Hoàng, Bất nguyện tịnh hành: Tần Thủy Hoàng không chịu cùng ngang hàng cùng Tam hoàng Ngũ đế, khinh mạn Tam hoàng Ngũ đế, cho mình cao hơn cả trời, hơn cả Thượng Đế.
Lại có kệ rằng:
Bạo ngược vô đạo nhất kiêu hùng: Tần Thủy Hoàng là một ông vua bạo ngược vô đạo, hết sức tàn nhẫn, nếu không thì làm gì có chuyện đốt sách chôn sống học trò chứ!
Hổ thủ nhân thân quái yêu tinh: Tần Thủy Hoàng chính là một yêu quái ăn thịt người, cũng giống như thân là người nhưng mang đầu hổ, thật là một quái tinh.
Thực tận thế nhân lưu bạch cốt: Loài quái tinh này đã bắt người trên khắp nhân gian ăn thịt chỉ còn chừa lại xương cốt.
Trảm tuyệt thương sinh, nhiễm huyết tinh: Tần Thủy Hoàng nhẫn tâm giết hết mọi người, toàn thân nhuộm đầy máu tanh hôi.
Vạn lý trường thành điếu cổ tích: Người đời sau đến viếng trường thành như là một chứng nhân để truy điếu những dấu tích oan nghiệt ngày xưa.
Thiên kiếp cự khanh hận nan bình: Mỗi khi nghĩ đến việc Tần Thủy Hoàng vì xây Trường Thành, đã đào hố chôn sống vạn vạn sinh mạng. Hố sâu oan nghiệt mà vua Tần đã đào, hố sâu oán hận này cho dù cả ngàn đại kiếp qua đi cũng không thể lấp được nỗi uất hận ấy!
Doanh Tần chính lực kim hà vãng: Họ Doanh là họ của nhà Tần, nên gọi là Doanh Tần, để phân biệt với nhà Phù Tần sau này, thế lực của Doanh Tần ngày nay đã đi đâu hết rồi? Chẳng còn ai biết được!
Thả khứ Nhật bản vấn ngư ông: Nếu có thể, chúng ta nên đến Nhật Bản mà hỏi thăm, người Nhật có lẽ ít nhiều cũng cũng biết chuyện này. Lí do tại sao người nhật lại biết chuyện này? Nhân vì Tần Thủy Hoàng khi ấy muốn trường sinh bất lão, để vĩnh viễn muôn đời ngự trị ở ngôi Vua, khi nghe nói giữa đại dương mênh mông có hòn đảo tiên tên là Bồng Lai, liền bắt sống cả ngàn thanh thiếu niên nam, nữ tướng mạo đẹp đẽ, do Từ Phúc dẫn đầu, đưa các em đi đến đảo Bồng Lai để đổi lấy thuốc trường sinh bất lão mang về cho Tần Thủy Hoàng. Những thiếu niên ấy đã mang trong lòng một nỗi uất hận lìa xa quê hương để bôn ba nơi xứ lạ. Tuy rằng sau đó những thiếu niên ấy kết hôn với nhau, sinh con đẻ cái nối dõi và trở thành người Nhật Bản sau này; nhưng quý vị thử xem người Nhật lúc nào cũng hung hăng không chịu khuất phục. Dù đã qua bao nhiêu thời gian, lòng oán hận của họ vẫn ngùn ngụt. Có thể những đứa trẻ ấy khi bị Tần Thủy Hoàng bắt đem đến Nhật bản thì cha mẹ của chúng cũng mang một nỗi oán hận như thế. Cứ nhìn người Nhật thì biết, tính khí của họ hung hăng, nếu không sao lại mang quân sang xâm lược nước Trung Hoa kia chứ? Cho nên quý vị có thể xem tính dân tộc của mỗi quốc gia mà có thể biết họ từ đâu đến.
◎ Tuyên Hóa thượng nhân giảng vào ngày 04/09/1987
Chú thích (1): Tần Thuỷ Hoàng nhiều lần gặp tai nạn, nhiều lần bị ám sát, cả đời của ông ta gặp hiểm nguy không ít. Tuy luôn ôm mộng trường sanh bất tử, nhưng rồi lần thứ tư khi đi tuần du, vua Tần đã lâm bệnh và qua đời tại Sa Khâu (nay là Hà Bắc huyện Bình Hương), năm ấy vua mới 50 tuổi, nguyên nhân mà nhà vua băng hà đến nay vẫn chưa được xác định rõ.
Chú thích (2): Lý Tư là học trò của Tuân Tử, ông ta học “thuyết tính ác”(con người sinh ra vốn đã có sẵn tính ác) của Tuân Tử, quan niệm cơ bản của thuyết này chính là dùng pháp luật nghiêm khắc để ngăn chặn bản tính làm ác của con người. Còn Mạnh Tử thì ngược lại, cho rằng con người sinh ra bản tánh vốn hiền lương, đề xướng “thuyết tánh thiện”. Lý Tư vốn chỉ là một khách quan của Tần Thủy Hoàng, về sau được Tần Thủy Hoàng tín nhiệm cho làm thừa tướng, có thể nói là chức vị quan cao nhất trong triều đình, nhưng ông ta tuy hiểu biết yếu chỉ của lục nghệ, nhưng lại không lấy chính nghĩa phục vụ cho triều đình để bù đắp những khuyết điểm của Tần Thủy Hoàng, trái lại vì quá xem nặng bổng lộc, nên chiều theo ý thi hành những hình phạt tàn khóc. Thậm chí khi Tần Thủy Hoàng băng hà, Lý Tư đã nghe theo âm mưu của quan thái giám Triệu Cao, lập chiếu chỉ giả, phế bỏ thái tử Phù Tô, lập Hồ Hợi - một kẻ ngu muội - lên kế vị Tần Thủy Hoàng tức là Tần Nhị Thế. Cuối cùng, Lý Tư cũng bị Triệu Cao lập kế mưu hại, không chỉ một mình Lý Tư bị chém đầu mà còn liên lụy đến cả dòng họ ba đời đều bị tru di.
Chú thích (3): Chính sách cai trị bạo tàn của Tần Thủy Hoàng, không những ức chế nhân dân, mà còn cho rằng quỷ thần cũng phải sợ mình nữa, những hình phạt lập ra cũng có thể dành cho những loài khác loài người. Ví dụ có một lần khi đi tuần về phía Nam phải qua sông Trường Giang để đến núi Tương thì gặp phải gió lớn, thuyền không cách nào lướt tới nổi, Tần Thủy Hoàng nổi giận lôi đình, lấy lý do là “thần núi Tương thổi gió lớn, làm trở ngại đường mình đi” rồi sai ba ngàn tù binh, chặt hết toàn bộ cây trong núi Tương.
http://www.chuakimquang.com/vn/Tu-Lieu/Thuy-Kinh-Hoi-Thien-Luc/Thuy-Kinh-Hoi-Thien-Luc/
VnVista I-Shine
© http://vnvista.com