Chúng sinh lưu chuyển trong hiểm nạn
Như Lai thương xót hiện ra đời
Khiến cho tiêu diệt tất cả khổ
Môn giải thoát nầy của Bi Lực.
« Chúng sinh lưu chuyển trong hiểm nạn ». Chúng sinh tức là anh, tôi, họ, cũng bao quát hết tất cả chúng sinh; bạn, tôi, họ, là chúng duyên hoà hợp mà sinh, thiếu một duyên cũng không thể sinh, cho nên gọi là chúng sinh. Giống như ngũ cốc trồng xuống đất, phải có duyên trời che đất chở, duyên đất duyên nước, duyên ấm và duyên lạnh, và phải có duyên người làm, và duyên thời tiết. Ðầy đủ nhân duyên phối hợp rồi, thì mới sinh trưởng được. Chúng sinh cũng phải có duyên cha duyên mẹ hoà hợp, nếu không thì không thể sinh ra.
Lưu chuyển tức là lưu đi chuyển lại, chuyển đến chuyển đi. Tức cũng là đời nay làm người, đời sau làm trâu ngựa dê gà chó heo lục súc. Hoặc là đời trước làm lục súc, đời nay làm người, đó gọi là lưu chuyển. Có khi kiếp trước là ếch nhái hoặc chuột, nhưng vì gần gũi chùa chiền, cho nên có cơ hội nghe pháp nghe kinh. Thời gian lâu rồi chúng đều có công đức, gieo trồng căn lành, đời sau bèn chuyển sinh làm người, không những làm người mà còn xuất gia làm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni.
Trước đây mấy hôm tôi thấy hai người xuất gia. Một vị kiếp trước là ếch nhái, phước báu rất lớn, cho nên mập mạp. Một vị kiếp trước là chuột, phước báu rất nhỏ, cho nên gầy ốm, nhưng vị đó rất thông minh.
Chuyện nầy nghe qua giống như là kể chuyện, giống như nói chuyện tiếu, nhưng là sự thật. Khi nào bạn chân chánh biết được, thì mới tin là có thật, chớ chẳng phải giả. Tuy nhiên họ xuất gia làm hòa thượng, nhưng lại tạo nhiều nghiệp ác, tương lai nói không nhầm thì, chưa chắt đã làm được ếch nhái hoặc là chuột, có thể phải làm con giòi trong hầm phân. Ðó là vì không tu công đức cho nên bị đoạ lạc, nếu siêng tu công đức, rộng gieo căn lành, thì phước báu đời đời tăng thêm, nói cho dễ hiểu, tu công đức thì có phước báu, không tu công đức thì chẳng có phước báu, đó là đạo lý lưu chuyển.
Chúng ta là người tu đạo, phải càng ngày càng sinh tâm tinh tấn, sinh đại đạo tâm, sinh tâm vui mừng, thì căn lành càng bám càng sâu. Căn lành sâu rồi, thì cành lá càng sum sê tươi tốt. Nếu hôm nay không tu hành, ngày mai không dụng công, ngày mốt lại giải đãi, cứ như thế thì, đạo nghiệp một ngày không như một ngày. Do đó, có thể chứng minh, bạn đời đời kiếp kiếp đều là hoà thượng lười như thế. Nếu tu đạo, lúc tiến lúc lùi, tiến tới một bước, lùi về sau hai bước, thì vĩnh viễn không đạt đến bờ kia. Công đức mình tu chẳng bao nhiêu, mà tạo tội thì nhiều, thì chắc chắn sẽ đọa lạc, tơ hào chẳng có gì nghi vấn. Ðó gọi là lưu chuyển.
Trong hiểm nạn tức là chỉ sự lưu chuyển trong các đường, con đường nầy rất nguy hiểm và gian nan, lang, trùng, hổ, báo, sư tử, rắn độc, thú dữ gì cũng đều có. Nếu gặp rắn độc sẽ bị rắn độc cắn chết, gặp thú dữ thì sẽ bị thú dữ cắn nuốt. Cho nên nói trong hiểm nạn.
Chúng ta người tu đạo, bất cứ xử lý việc gì, nên nhớ đừng có chút tâm đố kị, đừng có tâm cầu danh cầu lợi. Nếu có tâm cầu danh cầu lợi, hoặc tâm đố kị, vì cầu danh hoặc vì cầu lợi để tu đạo, thì chắc chắn sẽ đọa lạc, hoặc đoạ lạc vào điạ ngục, ngạ quỷ, súc sinh, đều không nhất định. Vì tu đạo phải tu nhẫn nhục Ba la mật, nếu không nhẫn được thì không bằng chết thanh tịnh; nếu không tinh tấn được, thì tu đạo có ích gì ? Nếu không rõ sự lý, thì càng ngày càng chẳng có ý nghĩa; nếu không hiểu Phật Pháp thì càng ngày càng đọa lạc, thậm chí đọa lạc vào trong hầm phân làm giòi, trải qua vô lượng kiếp rồi chuyển làm người, thân thể của họ sẽ toả ra một mùi hôi thối vô vùng. Phàm là thân thể người nào có một thứ mùi lạ, hoặc hôi thối thì, đều là kiếp trước không giữ giới luật.
Vừa nói về ếch nhái và chuột tái sinh làm người, lại xuất gia tu hành. Chắc chắn có người khởi hoài nghi: Làm sao biết được họ là ếch nhái tái sinh ? Làm sao biết được họ là chuột tái sinh ? Vấn đề nầy rất là đơn giản, rất dễ biết. Ai dũng mãnh tinh tấn, dụng công ngồi thiền, thì sẽ biết cảnh giới nầy. Ví như súc sinh sinh làm người, thì sau lưng xương sống của người đó, lưu lại bóng hình kiếp trước. Kiếp trước là súc sinh gì ? Thì hiện ra hình bóng đó. Song, phải là minh nhãn thiện tri thức mới biết được.
Nếu muốn biết mình kiếp trước là gì ? Thì hãy xem đời nầy mình làm những việc gì để quyết định, nếu bạn có tâm làm việc thiện, giữ quy cụ, thì bạn nhất định kiếp trước là người trồng căn lành. Nếu bạn không muốn làm việc thiện và không giữ quy cụ, thì nhất định kiếp trước là người chẳng trồng căn lành.
Người xuất gia, nhất định phải giữ gìn giới luật, dụng công tu hành, dù một giây một phút thời gian cũng đừng để luống qua, mỗi người phải có mỗi thời khóa biểu nhất định : Khi nào tọa thiền, khi nào tụng kinh, khi nào lễ Phật, khi nào trì Chú, đều phải làm đúng giờ. Bất cứ khổ như thế nào, mệt nhọc như thế nào, đều phải tự mình dụng công, tu pháp của mình. Không những một ngày có tâm thành, mà mỗi ngày đều có tâm thành, không những một ngày phải nhẫn nhục, mà mỗi ngày đều phải nhẫn nhục. Thành tâm nhẫn nhục là tại nơi mình, không thể gạt người. Phải dũng mãnh tu hành, mới mong thành tựu.
Làm sao biết được kiếp trước ? Phải xem họ giữ hay không giữ giới luật ? Giữ hay không giữ quy cụ ? Giữ được giới luật là có căn lành, giữ được quy cụ là thiện tri thức. Phàm là không giữ giới luật, vạch lộng tìm vết, làm cho người phiền não thì chẳng có căn lành.
Con mắt của con người tức là gương sáng, có khi chiếu bên ngoài, có khi chiếu bên trong, phải chiếu ngược lại, chiếu chính mình. Ðừng làm máy nhiếp ảnh, chỉ chiếu người mà không chiếu chính mình. Bất cứ là người xuất gia hoặc tại gia, đều phải hồi quang phản chiếu. Nếu thường hồi quang phản chiếu, thì sẽ có ngày thành công. Nếu không hồi quang phản chiếu, thì chỉ là lãng phí thời gian quý báu, đều để luống qua.
« Như Lai thương xót hiện ra đời ». Tại sao Phật xuất hiện ra đời ? Vì muốn giáo hóa chúng sinh cang cường khó điều khó phục, Phật thương xót tất cả chúng sinh. Những chúng sinh nầy mê mà không tỉnh, bất cứ dùng pháp môn gì để giáo hóa, họ cũng không giác ngộ. Họ chỉ biết đọa lạc vào trong ba đường ác, nhận súc sinh làm cha mẹ, ngạ quỷ làm bạn bè, đến địa ngục để tham quan, đều muốn thưởng thức, đáo để mùi vị như thế nào ? Cho nên, Phật thương xót loại chúng sinh nầy, mới xuất hiện ra thế giới nầy.
« Khiến cho diệt trừ tất cả khổ ». Phật đều khiến cho tất cả khổ não của chúng sinh đều tiêu diệt, mà đắc được an vui.
Người không có khổ thì không có vô minh, phiền não, nóng giận. Người chẳng có khổ mới là người tự tại thật sự. Nếu y theo pháp mà tu hành, thì mới đoạn được vô minh, diệt phiền não, như vậy thì sự nóng giận chẳng tồn tại dấu vết. Lúc đó mới đắc được Ba la mật.
« Môn giải thoát nầy của Bi Lực ». Môn giải thoát nầy, vị Ðại Bi Oai Lực Chủ Trú Thần thấy rõ được.
Chúng sinh trôi chìm trong đen tối
Phật vì thuyết pháp khiến thông đạt
Ðều khiến được vui trừ các khổ
Thiện Căn Quang Thần vào môn nầy.
« Chúng sinh trôi chìm trong đen tối ». Lúc chẳng có Phật ra đời, thì tất cả chúng sinh đều bị hãm ở trong thế giới đen tối, bị vô minh che đậy, trôi nổi ở trong ba đường ác, trong ba đường ác chẳng có ánh sáng, đen tối như ban đêm, chúng sinh vĩnh viễn chịu khổ ở trong ba đường ác, chẳng được tự do, càng không được ánh sáng.
Ba đường ác là gì ? Tức là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Ba đường ác nầy do tội nghiệt tạo thành. Vậy tại sao phải tạo tội nghiệt ? Vì tham sân si ba độc tác quái, tham thì chuyển làm ngạ quỷ, sân thì đọa vào địa ngục, si thì đọa làm súc sinh.
« Phật vì thuyết pháp khiến thông đạt ». Vì chúng sinh tạo tội nghiệt, mà đọa lạc vào ba đường ác. Dù ở trong ba đường lành cũng bị vô minh che đậy, cho nên cũng chẳng có trí huệ. Phật phát tâm thương xót vì những chúng sinh nầy, mà thuyết pháp khiến cho họ bỏ mê về giác, cải tà quy chánh, phát tâm bồ đề, cứu kính thành Phật.
Phật giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho họ hiểu đạo lý chân chánh, thì họ không còn tạo tội nghiệt nữa, muốn diệt trừ tham sân si, thì phải siêng tu giới định huệ, thực tiễn tín hạnh nguyện.
« Ðều khiến được vui trừ các khổ ». Phật giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ được vui, diệt sạch tất cả sự thống khổ.
« Thiện Căn Quang Thần vào môn nầy ». Vị Thiện Căn Quang Chiếu Chủ Trú Thần, đắc được cảnh giới nầy, minh bạch được Phật vì khiến cho tất cả chúng sinh dứt khổ được vui, mà xuất hiện ra đời. Vị nầy vào môn giải thoát nầy.
Phước Như Lai lường đồng hư không
Phước của thế gian từ đây sinh
Phàm ai làm được không luống qua
Hoa Anh đắc được giải thoát nầy.
« Phước Như Lai lường đồng hư không ». Tất cả phước của Phật đều là phước thanh tịnh. Tất cả phước của chúng sinh là phước không thanh tịnh. Song, phước không thanh tịnh là từ phước thanh tịnh sinh ra. Phước thanh tịnh cứu kính lớn cỡ nào ? Rộng cỡ nào ? Dài cỡ nào ? Có hạn lượng chăng ? Chẳng có ! Cho nên nói phước Như Lai lường đồng hư không. Hư không thì chẳng có số lượng, hư không thì chẳng cách chi tính được, cũng chẳng có bờ mé có thể tìm được.
« Phước của thế gian từ đây sinh ». Tất cả phước của thế gian đều chẳng thanh tịnh. Song, tất cả phước báu của thế gian, đều từ trong phước thanh tịnh của Phật sinh ra.
Phàm ai làm được không luống qua ». Bất cứ làm việc công đức gì, đều có phước báo không luống qua. Tuy nhiên, phước báu là từ trong phước thanh tịnh của Phật sinh ra, nhưng cũng phải tự mình đi làm công đức lành, thì mới được phước báo. Bằng không, thì đừng hy vọng có phước báo, phước báu chẳng phải ngẫu nhiên có được, mà là phải thực hành !
Nếu chúng ta làm việc thiện, lập công, tích tập công đức, thì mới có phước báo. Một số người thế gian chỉ biết tu phước trước mắt, mà không biết tài bồi phước báo cho tương lai.
Phước báo trước mắt là từ đâu đến ? Là từ vô lượng kiếp tài bồi mà đến. Tức là trong đời quá khứ tu đủ thứ căn lành, lập nhiều công, tích nhiều đức, cho nên đời này mới có phước báo. Vậy thì hãy nhớ phước báu cố hữu để tu phước báo vị lai. Ðó là phước lại thêm phước, trong phước tích phước, thì phước báu đời sau chắc chắn càng lớn.
Nếu không tiếp tục làm lành lập công tích đức, hưởng hết phước thì đời sau phải chịu khổ. Cho nên mới nói:
« Chịu khổ thì hết khổ,
Hưởng phước thì hết phước ».
Hai câu nầy rất quang trọng, hy vọng mọi người ghi nhớ, hiểu ý nghĩa hai câu nầy, thì cũng hiểu được đạo lý làm người.
Trồng nhân lành thì kết quả tốt, trồng nhân ác thì kết quả ác, đó là luật nhân qủa. Tuy nhiên đạo lý nầy rất đơn giản, dễ hiểu, song không thực hành thì chẳng ích gì! Cho nên chịu khổ thì hết khổ, hưởng phước thì hết phước, hai câu nầy rất là hệ trọng, nên nhớ ! không thể như gió qua tai!
Giống như bạn hiếu thuận với cha mẹ, thì con cái cũng sẽ hiếu thuận, do đó:
« Hiếu thuận thì sinh con hiếu thuận,
Con cháu hiếu thuận bồi đáp lại ».
Bạn hiếu thuận với cha mẹ như thế nào, thì con cháu của bạn sẽ hiếu thuận với bạn như thế đó, đó cũng là đạo lý nhân quả.
Dù con cái không biết hiếu thuận, thì bạn cũng nên hiếu thuận với cha mẹ, lấy thân làm gương ngày lại ngày, lâu dần thì từ từ sẽ cảm hóa con cái bất hiếu, mà biết hiếu thuận.
Tại nước Mỹ nầy, người dân chẳng có quan niệm về luân lý phải hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính sư trưởng, mọi người đều cho rằng là xã hội bại hoại, ngựa hại bầy. Do đó, đều đồng loã, mắng họ chưởi họ, nói họ ngu si quá, cho rằng tuy cha mẹ sinh ra mình, nuôi dưỡng dạy dỗ mình, đó là trách nhiệm của họ, cho nên người già chẳng ai chiếu cứ, thật đáng thương xót ! Khoa học của nước Mỹ là nhất thế giới, nhưng người già chẳng ai trông, đó cũng là nhất thế giới. Ở nước Mỹ, ai hiếu thuận với cha mẹ là kẻ địch của mọi người, khắp nơi chịu kỳ thị, chịu bài bác, chịu phỉ báng, bị người phê bình là ngoan cố, bảo thủ, lạc hậu, không theo thời đại. Thanh niên nước Mỹ tìm hết phương pháp thanh toán cha mẹ, đấu tranh cha mẹ. Tóm lại, không những không báo ân dưỡng dục của cha mẹ, ngược lại bất hiếu với cha mẹ. Người làm cha mẹ, sinh ra con cái không giáo dục, để mặc chúng tự do phát triển, thì những con cái đó làm sao biết ý nghĩa chữ hiếu là gì ? Do đó, nuôi mà không dạy là lỗi của cha mẹ vậy.
Tại đất nước nầy, nếu đề xướng về hiếu đạo, thì một số thanh niên sẽ phản đối. Nếu đề xướng về làm "hippi" hoặc hút độc .v.v., thì họ hoan nghênh, nhiệt liệt ủng hộ. Dạy họ hướng về hạ lưu thì cho rằng tốt, dạy họ hướng về thượng lưu thì cho rằng xấu, chẳng phải là đáng thương xót chăng ?
Pháp luật trên thế giới đều khác nhau. Ðồng thế ấy, tại nước nầy thì hợp pháp, đến nước khác thì phạm pháp. Có nước cho đàn ông để tóc dài râu dài, cho rằng là tiến bộ, hiện đại, tân thời. Có nước cho rằng sẽ ảnh hưởng trị an xã hội. Ðất nước nầy không hoan nghênh người hiếu thuận, nước nọ thì hoan nghênh người hiếu thuận. Cho nên, trên thế giới nầy rất nhiều việc quái lạ, do đó:
"Mười dặm không đồng phong,
Trăm dặm không đồng tục".
Viêc trên thế gian trăm kỳ ngàn quái rất khó nói, chẳng phải một đạo lý mà nói xong.
Tại đất nước tây phương trước kia chẳng có Phật giáo, ai ai cũng đều không cảm thấy thế nào là không tốt, bây giờ có Phật giáo, ai ai cũng không cảm thấy thế nào là tốt. Ðó là điên đảo tướng của chúng sinh. Có khi thật thì họ cho rằng giả, có khi giả lại cho là thật. Cho nên, một sự việc dùng một đạo lý nói thì không xong được. Song, dùng lý luận Phật giáo nói thì viên mãn được. Nếu bạn tạo tội nghiệt thì đọa lạc vào ba đường ác. Nếu bạn làm công đức lành thì vượt ra tam giới. Cho nên nói, phàm là làm việc gì cũng không luống qua.
« Hoa Anh đắc được giải thoát nầy ». Ðạo lý môn giải thoát đã nói ở trước, vị Hoa Anh Lạc Chủ Trú Thần minh bạch, hiểu rõ được.
http://www.chuakimquang.com/vn/Tu-Lieu/Kinh-Sach/Kinh-Hoa-Nghiem-Giang-Giai-Tap-3/
VnVista I-Shine
© http://vnvista.com