Bản in của bài viết

Click vào đây để xem bài viết này ở định dạng ban đầu

Gia Trang

Truyền thuyết về các loài hoa

Sự tích về Hoa Hướng Dương

Ngày xửa, ngày xưa có một đôi trai gái yêu nhau tha thiết, trông họ thật đẹp đôi - trai tài gái sắc tưởng chừng tình yêu không có gì chia rẽ được họ.
Ngày qua ngày họ vui đùa bên nhau ở trên cánh đồng bát ngát màu xanh của cỏ. Một ngày nọ cũng ở trên cánh đồng xanh đó, giữa một ngày nắng đẹp trời xanh và cao. Hai người vẫn như thường lệ đùa vui với nhau, sau khi mệt nhoài họ ngả lưng xuống dưới tấm nệm cỏ đó, cùng nhau ngắm bầu trời. Bất chợt cô gái hỏi chàng trai:
- Anh ơi, bao giờ thì mặt trời không chiếu sáng nữa nhỉ?
- Anh không biết đâu,
- Thế bao giờ thì bầu tời hết trong xanh như thế này anh nhỉ?
- Anh cũng không biết nữa - chàng trai đáp lại
Cuối cùng cô gái hỏi chàng trai:
- Thế có khi nào chúng mình xa nhau không anh?
- Mình chỉ xa nhau khi mà bầu trời không được mặt trời chiếu sáng, và nó cũng không còn màu xanh nữa.
Cô gái rất hài lòng vì câu trả lời của chàng trai. Tuy nhiên, sự đời không đẹp đẽ như nhiều người mơ ước. Một đêm nọ chàng trai đến gặp người mình yêu và nói:
-Chúng ta chia tay nhau nhé
Thật sự ngỡ ngàng cô gái hỏi lại chàng trai:
- Trước kia anh đã từng nõi với anh rằng: chúng ta chỉ chia tay nhau khi bầu trời không được mặt trời chiếu sáng nữa và nó cũng không còn màu xanh, sao bây giờ anh lại nói chia tay em!
Ngước mắt lên nhìn bầu trời chàng trai nói:
- Em hãy nhìn đi, bây giờ bầu trời không còn được mặt trời chiếu sáng nữa, và bầu trời không phải màu xanh mà chỉ có màu đen mà thôi.
Rồi chàng trai quay bước ra đi bỏ lại cô gái thương khóc một mình. Cô khóc mãi khóc mãi. Cô quay về hướng mặt trời để hy vọng rằng khi trời sáng, lúc cô nhìn thấy tia nắng đầu tiên thì cũng là lúc chàng trai chở về với cô. Tuy nhiên khi trời sáng khi mà cô cảm nhận được ánh sáng ấm áp của mặt trời chiếu vào mặt mình cũng là lúc người con gái si tình ấy biết mình đã mù. Cô không còn nhìn thấy ánh nắng mặt trời cũng không còn nhìn thấy màu xanh của bầu trời, nhưng cô vẫn quay mặt của mình về hướng mặt trời với hy vọng là một khi nào đó mắt cô sáng trở lại cũng là lúc người yêu của cô theo cùng tia nắng đầu tiên đó quay trở lại. Ngày qua ngày người con gái đó đã làm như vậy, rồi thân thể cô teo tóp lại biến cô thành một loài hoa luôn luôn hướng về mặt trời - Người đời gọi đó là Hoa Hướng Dương.

Hoa táo
(Sự hâm mộ, ưa chuộng)
Có lẽ không có gì thú vị bằng khi được ngắm một cây táo trong buổi sớm mùa xuân, khi thân cây được phủ đầy những bông hoa xinh đẹp. Hoa táo mang ý nghĩa "sự hâm mộ, ưa chuộng". Một số không ít người ưa thích hoa táo hơn hoa hồng, không những nó là loài hoa rất dễ thương mà còn hứa hẹn sẽ cho những quả ngon sắp đến. Người La Mã coi trọng cây táo vì hiệu quả của nó trong việc trang trí. Họ xem xét, một cách hợp lý, từ hương sắc cho đến độ nở sớm của hoa cũng như khả năng kết trái của chúng... và từ đó, dành cho nó một vị trí nổi bật trong khu vườn tuyệt đẹp của  họ.

Hoa Cúc Tây
(Chín chắn, - Tình yêu muôn màu)
Hoa Cúc tây, còn được gọi là hoa Sao, có tên gọi bắt nguồn từ chữ Hy Lạp "Aster", có nghĩa là ngôi sao. Người ta nói nó tượng trưng cho sự chín chắn vì nó nở hoa vào đầu thu khi mà đa số các loài hoa khác đã tàn.
Cúc tây được đem từ Trung Quốc vào Châu Âu năm 1730 bởi một nhà truyền giáo người Pháp. Vì là kết quả của sự gieo trồng với kỹ thuật cấy ghép cẩn thận nên ngày nay loài hoa trắng như tuyết này đã rất phong phú và đa dạng chủng loại. Điều này giải thích vì sao Cúc tây còn mang ý nghĩa là "tình yêu muôn màu".

Hoa Calla
(Sắc đẹp lộng lẫy)
Hoa Calla là một thành viên trong họ thực vật hoa kèn. Giống Calla có nguồn gốc từ Ethiopia. Nó rất được ưa chuộng vì những đài hoa trắng như tuyết dễ thương, những chiếc lá xanh to bản và nhất là mùi hương dễ chịu. Là hoa biểu tượng cho sắc đẹp lộng lẫy, Calla thường hiện diện trong các bó hoa cầm tay của các cô dâu.

Hoa trà
(Duyên dáng, cao thượng)
Còn được biết đến dưới tên gọi Hoa - hồng - Nhặt Bản, hoa trà là một trong những loài hoa dễ thương nhất từng du nhập vào Bắc Mỹ. Trong ngôn ngữ của loài hoa, hoa trà mang ý nghĩa là "sự duyên dáng nhất" cũng như là "Trái tim anh đã thuộc về em". Được đưa vào Châu Âu từ năm 1639 bởi một thầy tu dòng Tên Joseph Kamel, nên hoa trà có tên từ nguồn gốc của tên người này. Tiếc rằng dù có vẻ đẹp duyên dáng tuyệt vời nhưng hoa trà lại không có hương!

Hoa Bụi đường
(Sự thờ ơ, lạnh lùng)
Loài hoa xinh đẹp này có thể trồng trong vườn nhà rất hay với từng cụm hoa bé bé màu trắng, hồng hoặc tím. Những hạt giống đầu tiên của
loài cây thuộc họ mù tạc này được phổ biến đi khắp nơi từ vùng Candia thuộc Hy Lạp, điều này giải thích cho cái tên tiếng Anh, Candytuft của nó. Mùa nở hoa của Bụi đường rất dài và tỏ ra thích nghi cả với thời tiết xấu rõ ràng với đặc tính này mà Bụi đường được cho mang ý nghĩa "sự thờ ơ, lạnh lùng".

Hoa chuông
(Lòng biết ơn - Tính kiên định)
Là thành viên của họ hoa Camphaluna, hoa chuông sở dĩ có tên như thế vì nó được trồng rất nhiều ở Canterbury, một trong những "Thủ đô của Anh giáo". Một số nhà chơi hoa cho là hoa chuông mang ý nghĩa "tính kiên định" trong khi một số khác lại cho là nó biểu hiện cho lòng biết ơn". Những bông hoa chuông màu tím nói chung là rất to nhưng cũng có rất nhiều loại nhỏ hơn với màu xanh, tím và trắng. Thật thanh thản khi tưởng tượng những chiếc hoa chuông xinh xắn rung rinh reo vui trong gió và các sinh vật nhỏ bé này lại nấp dưới những giàn hoa treo và những cành cây to.

Hoa Cẩm chướng
(Sự từ chối)
ý nghĩa của hoa Cẩm chướng thay đổi tùy theo màu sắc của nó.
Trong khi hoa Cẩm chướng bị tước hết lá là biểu tượng của "sự từ chối" thì cẩm chướng đỏ lại có ý nghĩa 'Thương thay cho trái tim tội nghiệp của tôi" và Cẩm chướng vàng tượng trưng cho "sự chán ghét".
Có nhiều huyền thoại về nguồn gốc của hoa Cẩm chướng. Theo một câu chuyện xưa thì hoa Cẩm chướng được lòng ở thiên đường rồi rơi xuống trần gian. Chuyện khác thì cho rằng nó sinh ra từ các ngôi mộ của các cặp tình nhân trẻ tuổi. Cẩm chướng là một trong các loài hoa lâu đời nhất được con người gieo trồng. ở Anh, nó được biết đến từ thế kỷ 14 và đã được văn hào Chaucer nhắc đến trong các tác phẩm của mình. Với tên tiếng Anh là Carnation, người ta đoán chắc Cẩm chướng có nguồn gốc từ lncarnacyon. Cẩm chướng là loài hoa có mối quan hệ với tôn giáo rất sâu sắc vì từ sự hóa thân của nó, người ta dùng Cẩm chướng để gọi tên các sự kiện nhiều dấu ấn: Sự khổ nạn của chúa Giêsu, giọt máu của Chúa, loài hoa thần thánh...
Có câu chuyện kể rằng: Marie Antoinettc, một tù nhân tại Paris năm 1793, đã vạch ra kế hoạch vượt ngục lên một mảnh giấy bé xíu giấu trong đài hoa của một cành Cẩm chướng đã tước hết lá và gửi cho bạn mình. Mảnh giấy bị phát hiện và bà đã bị lên máy chém hai tháng sau đó.

Hoa Cúc đại đoá
(Lạc quan trong nghịch cảnh)
Cúc đại đóa được gieo trồng đã hằng mấy thế kỷ bởi các nhà làm vườn ở Trung Quốc và Nhật Bản, nơi xuất xứ của loài hoa này. Mặc dù người Trung Quốc đã trồng loài hoa này rất sớm, khoảng 500 năm trước Công nguyên, nhưng chúng không thành công trong việc du nhập vào châu âu cho mãi đến thế kỷ 18. Khi hầu hết các loài hoa khác đã ngưng nở, gió và mưa thu đã bắt đầu rơi thì Cúc đại đóa mới nở. Vào tháng 10 và 11 ảm đạm, vài loại hoa của loài hoa này đạt đến đỉnh điểm của sự rực rỡ. Cúc đại đóa hoàn toàn phù hợp với ý nghĩa "Lạc quan, vui vẻ trong nghịch cảnh".

Hoa Rẻ quạt
(Sự ngớ ngẩn)
Có nguồn gốc từ Nam Mỹ, đây là một loài hoa dễ thương và duyên dáng mọc ở những khoảng rộng thoáng trong rừng và trên các bờ dốc đá. Hoa có thể có màu đỏ tươi, hồng, tím hoặc trắng và làm cho khu vườn thêm sặc sỡ. Khó lý giải tại sao Rẻ Quạt lại mang ý nghĩa của 'Sự ngớ ngẩn". Vài ý kiến cho là vì hình dáng của đài hoa trông giống như mũ của một chú hề.

Hoa Ngô
(Sự dịu dàng, tế nhị)
Từ lâu, các họa sĩ đã biết nghiền nát những cánh hoa ngô màu xanh thẫm để làm thành một màu xanh tinh tế cho các bức tranh của họ. Tên cổ điển của hoa ngô là Cyanus, theo tên của một cận thần trẻ tuổi của bà chúa hoa Flora. Trong các lễ hội công cộng, Cyanus thường chủ trì việc kết các vòng hoa dại và tổ chức vui chơi hàng giờ trên các cánh đồng bắp, vừa hát ca vừa tung tẩy những vòng hoa kết tuyệt đẹp. Một hôm, Flora thấy Cyanus nằm chết trên cánh đồng bắp. Tiếc thương nàng, bà đã biến nàng thành hoa ngô như là một phần thưởng cho tấm lòng tận tụy của nàng đối với bà, cũng như đối với cộng đồng.

Hoa Nghệ tây
(Sự vui mừng, tươi tắn)
Một số nhà nghiên cứu cho rằng loài hoa bé nhỏ duyên dáng này, loài hoa báo hiệu xuân về, có nguồn gốc tên từ một từ Hy Lạp có nghĩa "sợi chỉ". Vì màu vàng nghệ của của hoa này được tạo ra từ nhụy hoa hoặc các sợi nhị mảnh mai. Truyền thuyết Hy Lạp kể rằng: Thượng đế thương xót cho một người chung thủy với tình yêu nhưng bất hạnh tên là Crocus, ngài đã biến anh thành một loài hoa tươi tắn và vui vẻ, mang tên anh ta.

Hoa Anh thảo
(Sự thiếu tự tin)
Người La Mã gọi hoa Anh thảo là "tuber terrae" bởi vì rễ của nó trông giống như những củ cải trắng. Từ thế kỷ 17, người ta đã biết bào chế những "củ tươi" của cây Anh thảo để làm thành một loại thuốc mỡ, dùng sức vào da để tránh bị thẹo rỗ sau khi bị bệnh đậu mùa. Ngoài việc được dùng để nuôi heo, củ Anh thảo còn được xay thành bột để làm bánh, bồi bổ sức khỏe và tăng khả năng sinh hoạt tình dục. Hoa Anh thảo mang ý nghĩa "nhút nhát, thiếu tự tin" vì nó chưa bao giờ dám hướng về phía mặt trời.

Hoa Thuỷ Tiên
(Tình yêu đơn phương)
Thủy tiên, loài hoa thuỷ họ gừng nghệ, có màu vàng dịu dàng rất được các văn - thi sĩ yêu thích và ca ngợi. Thần thoại Hy Lạp kể rằng: Khi Proserpine, một công chúa của thượng giới, đang đi thâu hoạch mùa màng thì bị Pluto, một vị thần cai quản âm phủ bắt cóc và ép nàng phải lấy vợ. Thần thoại La Mã cũng có một nhân vật tên Dis giống hệt Pluto. Và vì từ lâu, các văn thi sĩ đã xem Thủy tiên như một thành viên của họ hoa Loa kèn, nên họ gọi loài hoa này là "việc làm ám muội của hoa Loa kèn của Dis".

Hoa Thược dược
(Sự tao nhã - Lòng tự trọng)
Hoa Thược dược có nguồn gốc từ Mexico được mang vào Tây Ban Nha năm 1789 và đã trang điểm cho vườn hoa của Hoàng gia trong suốt 9 năm. Sau đó Tây Ban Nha mới cho phép nó được du nhập vào các nước khác ở châu âu. Chính ở các nước này, Thược dược đã khiến cho bao du khách người Anh kinh ngạc vì sự dồi dào về chủng loại và độ lớn của nó. Hoa Thược dược được đặt tên theo tên của Andrew Dahl, một nhà thực vật học người Thụy Điển. Ông đã trao tặng giống hoa này cho Lady Holland năm 1804 và Lady Holland cũng chính là người đã gieo trồng thành công loại hoa này tại Anh quốc.
Có lẽ vì hoa Thược dược không có hương và những tán lá tuy có màu xanh đẹp nhưng hơi thô ráp và nhất là vì sắc hoa quá phô trương mà nó ít được các nhà thơ ca tụng.

Hoa Cúc trắng
(Sự ngây thơ)
Có thể nói hoa Cúc trắng là loài hoa nhận được nhiều nhất sự chiêm ngưỡng của các nhà thơ, chỉ sau hoa hồng. Theo truyền thuyết, bông hoa nhỏ bé này có nguồn gốc từ Belides, một trong các nữ thần chăm sóc các khu rừng. Một hôm, khi Belides đang nhảy múa với người yêu của mình là Ephigeus, cô đã lọt vào sự chú ý của Vertumrus, nam thần cai quản các vườn cây. Để bảo vệ cô khỏi sự săn đuổi này, chúa của loài hoa là Flora đã biến cô thành một đóa cúc trắng. Một trong các nhà thơ lớn người Celte (Ai-len) lại đưa ra một nguồn gốc mang nhiều vẻ thần thoại hơn: Hoa cúc trắng đã được gieo trồng lần đầu tiên lên ngôi mộ của một hài nhi bởi những đôi tay mềm mại của các thiên thần nhỏ bé.
Tên tiếng Anh của loài hoa này có nguồn gốc từ một từ Sa xon, có nghĩa là "con mắt ban ngày", có lẽ vì hoa nở vào sáng sớm và khép lại lúc chiều tà.

Hoa Bồ công anh
(Lời tiên tri)
Loài hoa dại nhỏ bé quen thuộc này không chỉ cực kỳ hữu dụng trong nhiều món ăn mà còn đối với những mục đích y học. Với năng lực được cho là bí hiểm của nó mà những đôi mắt của bạn trẻ đang yêu sẽ sáng hơn hoặc mờ đi với những giọt nước mắt báo trước. Với những cánh loa vành Bồ công anh thường được chọn để tiên đoán xem "anh ấy yêu mình" hoặc "anh ấy không yêu mình" trong trò chơi đếm cánh hoa tiên đoán tình yêu. Tuy nhiên, Bồ công anh không chỉ được xem là lời sấm truyền đối với những vấn đề của trái tim. Vì hoa nở và tàn vào những giờ giấc nhất định nên từ xưa nó đã được những người chăn cừu cô đơn xem nó như một cái đồng hồ.
Tên tiếng Anh của Bồ công anh dường như có nguồn gốc từ cái tên tiếng Pháp. Vì lá của loài hoa này có các khía sâu nên người ta liên tưởng đến hàm răng của sư tử, cho nên nó được gọi là "dent de lion" hay răng sư tử.

Hoa Phi Yến
(Nhẹ nhành, thanh thoát)
Loài hoa này mang ý nghĩa nhẹ nhàng với nét thanh thoát duyên dáng của bông hoa. Theo truyền thuyết, hoa phi yến đã mọc lên từ máu của Ajax, một chiến binh dự chiến thành Troy. Thất vọng trong việc phân chia chiến lợi phẩm, Ajax nóng tính chạy ra đồng và trút cơn giận dữ của mình lên một đàn cừu, anh ta đã giết một số cừu trước khi thức tỉnh khỏi cơn điên loạn. Xấu hổ trước cảnh tượng do chính mình gây ra, Ajax đã quay gươm tự sát. Máu của anh ta chảy đầy trên mặt đất và sau đó nảy ra những bông hoa. gọi là hoa Delphinium Ajacis.
Một số người lại cho rằng sở dĩ nó có tên gọi như vậy vì hình dáng của nó trông giống cái mũi nhọn trên đầu con cá heo. Thật ra, mỗi người lại nhìn thấy hình dáng của loài hoa này thành một thứ khác nhau, vì vậy nó còn được gọi là lark- spur vì nó trông giống cái mào của con chim chiền chiện (lark).
Hoa phi yến được gieo trồng từ thời các vua Pharaôn, lúc đó chúng được xem là một loại cây quan trọng vì người thời đó dùng nó để làm thuốc trừ sâu.

Hoa Anh thảo muộn
(Tình yêu thầm lặng)
Hoa Anh thảo muộn không bao giờ hé mở các búp hoa màu vàng nhạt của mình cho đến khi trăng lên. Loài hoa này hướng về phía trăng bạc và vào lúc nửa đêm chúng thường bị bao vây bởi nhiều loại côn trùng tránh ánh nắng ban ngày và xem loài hoa này như là một bữa tiệc đêm thịnh soạn. Khi đêm xuống và không gian hoàn toàn yên tĩnh, các cánh hoa phát ra một thứ ánh sáng lân tinh dìu dịu trông như những ngọn đèn được thắp sáng cho một đêm lễ hội.

Hoa Lưu ly
(Tình yêu chân thật)
Có một truyền thuyết rất thuyết phục của người Đức giải thích nguồn gốc tên của loài hoa màu xanh tím nhỏ bé xinh đẹp này, cũng như ý nghĩa của nó trong ngôn ngữ các loài hoa: Ngày nọ, có một hiệp sĩ trẻ và người yêu đang đi dạo dọc theo bờ sông Danube. Cô gái trông thấy một đám hoa màu xanh đang trôi xuôi theo dòng sông: "Em muốn có đóa hoa xinh đẹp đó !", cô gái la lên. Ngay tức khắc, người tình dũng cảm của cô phóng mình xuống dòng sông và vớt lấy đám hoa trôi. Nhưng hỡi ơi, do bị vướng víu bởi sức nặng của bộ áo giáp hiệp sĩ, anh ta đã không thể vượt qua được bờ  sông trơn trợt dù đã cố gắng hết sức, cảm thấy mình đang nhanh chóng bị chìm xuống, anh ném hoa lên bờ cho người yêu và bằng những hơi thở tàn cuối cùng của mình trước khi chìm mãi, anh gọi nàng một lời như trăn trối : "Xin đừng quên  nhau!".
Được gắn liền với một bi kịch  lãng mạn như vậy nên không có gì phải ngạc nhiên khi có rất nhiều vần thơ ca tụng loài hoa màu xanh thiên đường bé nhỏ này.

Mao địa hoàng
(Sự giả dối)
Tuy xinh đẹp nhưng lại mang biểu tượng của sự giả dối vì vào lúc ngôn ngữ của loài hoa được khai sinh, người ta cho rằng giữa các bông hoa xinh đẹp này có một chất độc gây ra sự đố kỵ. Ngày nay, chúng ta biết được rằng chất độc đó được chiết xuất từ Mao địa hoàng để chế tạo thành một loại thuốc kích thích tim mạch và làm thuốc lợi tiểu. Màu sắc của hoa Mao địa hoàng rất đa dạng nhiều sắc độ tím, rồi cam đen, hồng đỏ, kem và trắng. Bên trong tràng hoa hình chóp ngược có các đốm nhỏ làm tăng thêm vẻ đẹp của hoa. Alfred. Lord Tennyson (một thi sĩ Anh) đã mô tả hoa Mao địa hoàng thật chính xác: "Những tràng hoa có đốm như là những cái chuông con!"

Hoa vãn anh
(Khiếu thẩm mỹ)
Hoa vãn anh có nguồn gốc từ Chi Lê, được vinh dự mang tên của Leonard Fuchs, nhà thực vật học người Đức nổi tiếng vào thế kỷ 16. Loài hoa khỏe mạnh chịu được rét này nở từ tháng 7 cho đến hết mùa đông. Hoa Vãn anh rất đẹp. Thông dụng là hồng pha trắng, nhiều loại khác có màu đỏ tươi và tím. Có lẽ ngoạn mục nhất là những hoa mang màu đỏ thẫm rất tươi và màu tím đậm. Vãn anh có nhiều tên gọi thông dụng khác như bông hồng xứ Castile, phu nhân sành điệu, áo dạ hội... Các tên gọi này có lẽ đã giải thích được tại sao hoa vãn anh lại mang biểu tượng của "khiếu thẩm mỹ".

Hoa Long đởm
(Sự kiêu hãnh, trong trắng)
Là loài hoa dại của mùa thu có màu xanh lộng lẫy và cánh hoa có tua viền một cách sắc sảo. Nó mang tên của Geneus, một vị vua xứ Illyria, người đã phát hiện ra việc loài cây này rất tác dụng trong việc chữa trị nhiều chứng bịnh. Các thầy thuốc thời xưa đã sử dụng cây hoa này để trị nhiều bệnh khác nhau như chó cắn, xơ gan, suy nhược, gãy tay chân, dịch hạch. ở Hungary, cây hoa này được gọi là Sanctus Ladislas Regis Herba để tưởng nhớ đến một vị vua mà dưới thời của ông đã xảy ra một trận dịch hạch lớn với nhiều tổn thất. Quá tuyệt vọng, vua Ladislas mang cung và tên đi ra một cánh đồng. Ông cầu  nguyện rằng, khi ông bắn ngẫ nhiên một mũi tên, Chúa trời hãy  hướng mũi tên đó cắm vào loại cây  nào có thể dùng để ngăn chặn sự tàn phá của dịch bệnh khủng khiếp này. Và mũi tên ấy đã cắm vào cây Long Đởm. Thật phi thường, nó đã trị được bệnh dịch này.
 Tuy nhiên không ai giải thích được tại sao bông hoa xanh hiếm thấy này lại có nghĩa là "sự kiêu hãnh trong trắng".

Hoa Phong lữ
(Sự ưu ái)
Hoa Phong lữ có nhiều ý nghĩa vì sự đa dạng của chính nó. Loại phổ biến và được ưa chuộng nhất có hương rất thơm và thường là màu hồng hoặc đỏ, là biểu tượng của "sự ưu ái". Nhiều loại Phong lữ, hoặc đúng hơn là cây quỳ thiên trúc, được du nhập vào Anh Quốc từ Nam Phi vào thế kỷ 18 và 19. Tên Geranium có nguồn gốc từ Hy Lạp, có nghĩa là "con sếu" vì lá noãn của cả hoa và trái đều có một cái mỏ rất dài và dễ trông thấy.
Phong lữ mang biểu tượng "sự ưu ái" chính vì sự mềm mại của những chiếc lá, vẻ đẹp của bông hoa và mùi hương rất dễ chịu của nó. Khi chà xát lá vào các ngón tay, lá sẽ cho một mùi hương thú vị.
Đặc biệt, có một loài Phong lữ màu đỏ tươi rói, cũng rất được phổ biến và ưa chuộng, nhưng trong ngôn ngữ các loài hoa, nó lại mang biểu tượng của "Sự ngu ngốc"!.

Hoa Táo gai
(Niềm hy vọng)
Nếu như hoa Hồng là loại hoa được đa số các nhà thơ trên thế giới yêu mến nhất, thì bông hoa trắng như tuyết đầy hương của cây táo gai lại đã từng là tình yêu lớn của các thi sĩ người Anh. Là biểu tượng của "niềm hy vọng", hoa táo gai được các nhà thơ thay nhau ca ngợi: Bắt đầu là Chaucer và được mọi người tán thưởng. Ngày xưa, Táo gai được gọi là Cây Tháng Năm vì tháng này là tháng nó trổ hoa. Từ nhà dân cho đến nhà thờ, ngày 1 -5 được trang hoàng bằng những chùm hoa đầy hương này. ở các vùng quê còn có một tập tục lý thú, thanh niên nam nữ thức dậy rất sớm sau nửa đêm của ngày 1 - 5 và được các nhạc công hộ tống đi diễu hành vào một khu rừng đã được chọn trước, nơi họ đã tập hợp được thật nhiều Táo gai. Họ sẽ trở về nhà vào lúc bình minh bằng một đám rước vui nhộn, trên đầu và trên tay người nào cũng đầy ắp các vòng và các cành Táo gai. Họ sẽ dùng số hoa này vào việc trang trí cho làng và nhà của mình.
Màu sắc phổ biến của loài hoa sắc sảo này là màu trắng ửng hồng. Còn có một loại thường được trồng trong vườn nhà có hoa kép màu đỏ thẫm rất lộng lẫy.

VnVista I-Shine
© http://vnvista.com