Nguyễn Mạnh Bình

Xem theo danh mục
Xem theo danh mục:
     


Tìm kiếm:
     

Thông tin cá nhân

nguyenmanhbinh
Họ tên: Nguyễn mạnh Bình
Nghề nghiệp: Giáo viên
Sinh nhật: 21 Tháng 10
Yahoo: manhbinhkb  
Trạng thái: User is offline (Vắng mặt)
Thêm vào nhóm bạn bè
Gửi tin nhắn
" NHẬT TÂN, NHẬT TÂN, HỰU NHẬT TÂN" ( Ngày Mới, Ngày Mới, Lại ngày Mới ! )




THÔNG TIN MỚI
CÙNG CÁC EM HS CỦA TÔI
User Posted Image

Dãy lầu Nam-Trường THPT NĐC

Năm học 2010 - 2011
Năm học mới đã bắt đầu. Chúc các em có nhiều niềm vui và đạt được những điều mà bản thân em. cha mẹ và Thầy cô hằng mong muốn!
Hãy tự hào mình là hs trường THPT NĐC.

Nguyễn Mạnh Bình
stop.gif

Tin nhanh

(♥ Góc Thơ ♥)

Truyện cười

Người Kinh Bắc

Thân chào các bạn của tôi. Tôi lập Blog này nhằm để trao đổi thông tin. Hãy vào trang này và góp ý kiến phản hồi về tất cả các mục. Mong tin bình luận của các bạn.
Bạn cũng có thể gởi Email cho tôi theo đ/c: [email protected]

Thân ái thumb_up.gif


Trao ĐỔi KiẾn ThỨc MÔn VĂn
Mong được giao lưu trao đổi những kiến thức về môn văn trên lĩnh vực học tập và giảng dạy. Bạn hãy gởi tin, bài cho tôi theo địa chỉ Emal: [email protected]. Cám ơn ban!

Tik Tik Tak

NHẠC TUYỂN TRỮ TÌNH


   Trong: Y kiến trao đổi
 


Để các em hs và các bạn có thêm tài liệu và có thêm cách nhìn, cách cảm nhận về một tác phẩm  được học trong chương trình Ngữ Văn lớp 10, tôi xin giới thiệu một bài viết khá sâu sắc và công phu của Cô Phan Thanh Vân - Giáo viên trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, thành phố Vinh, Nghệ An và phần bình luận, góp ý của tôi sau khi đọc bài viết này...
Bài đã được đăng trên http://thanhthanhvan.vnweblogs.com

Cũng nói thêm: Cô Phan Thanh Vân đã từng có lời phê rất sâu sắc trong bài làm văn của em Nguyễn Thị Hậu (Đã được giới thiệu trên trang này:" Một bài văn chan chứa tình người"...}

VỀ VĂN BẢN & HƯỚNG KHAI THÁC BÀI THƠ

"BẢO KÍNH CẢNH GIỚI SỐ 43"

CỦA NGUYỄN TRÃI

              ------------

                     Rồi hóng mát , thuở ngày trường

                Hòe lục đùn đùn, tán rợp trương

               Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

                Hồng liên trì đã tịn mùi hương

                Lao xao chợ cá làng ngư phủ

                Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

                Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

               Dân giàu đủ, khắp đòi phương .  
                      
          (Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, H.1976, tr 453)

                               
           1. Trong chương trình Ngữ văn lớp 10, Nguyễn Trãi là một trong những tác giả trọng tâm. Ngoài phần giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả, học sinh còn được học hai tác phẩm. Đó là Bài cáo bình Ngô Bảo kính cảnh giới số 43. Đây là những tác phẩm đã hiện diện trong chương trình ngữ văn THPT từ hàng chục năm nay. Tuy nhiên, cách hiểu và hướng khai thác các tác phẩm đến nay vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất. sự thất lạc văn bản, sự  biến âm, biến nghĩa của các văn bản chữ Nôm, chữ Hán có thể xem là những nguyên nhân trực tiếp.Vì lẽ đó, khôi phục lại văn bản, đi tìm một cách hiểu đúng dựa trên một cái nhìn nhất quán của thi pháp học là việc làm có ý nghĩa. Nó giúp ta không chỉ hiểu đúng một câu thơ, một bài thơ mà còn góp phần hiểu đúng hơn con người và tư tưởng của ông. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được trao đổi thêm một số vấn đề về bài thơ Bảo kính cảnh giới số 43.

          2. Sách giáo viên Văn 10 (chỉnh lý hợp nhất năm 2000), phần văn học Việt Nam, ở phần hướng dẫn giảng bài Bảo kính cảnh giới số 43 của Nguyễn Trãi,  được bắt đầu bằng việc khẳng định tâm thế "mở lòng  ra đón nhận cảnh vật" của nhà thơ "đón trong lúc rồi (rỗi rãi), trong lúc dạo chơi hóng mát, nghĩa là trong lúc sống nhàn nhã mà tâm hồn cũng thảnh thơi…"2. Từ cách hiểu đó, soạn giả viết: "Thi nhân đã đón nhận cảnh vật bằng thị giác, thính giác, khứu giác và cả bằng ấn tượng, tưởng tượng nữa. Trong cảnh có sắc (xanh, đỏ, hồng), có ánh sáng (chiều tà), có âm thanh (cầm ve). Nói chung là cảnh vật có sức sống, đang cựa quậy, đang vươn tới, trông vui mắt…"  và nữa, "từ niềm vui đó lại còn dậy lên một ước mong cũng thật cao đẹp, cũng thật nghệ sĩ: ước mong có được tiếng đàn của vua Thuấn ngày trước để ca ngợi  cuộc sống hôm nay"3. Cùng cách nhìn đó, nhưng có phần chi tiết hơn, Lã Nhâm Thìn trong cuốn Giảng văn văn học Việt nam  cũng cho rằng, "Thời gian rảnh rỗi, tâm hồn thư thái, thanh thản, khí trời mát mẻ, trong lành…Một ngày như thế trong đời Nguyễn Trãi đâu nhiều. Ông là người thân không nhàn mà tâm cũng không nhàn. Một phút thanh nhàn trong thuở ấy với Nguyễn Trãi  thật đáng quý biết bao. Quả hiếm hoi mới có một hoàn cảnh lý tưởng đến thế - cả khách quan và chủ quan - để làm thơ, để yêu say cái đẹp"4   Từ cách hiểu ấy, tác giả phát triển thêm: "Ở đây ông có được cả một ngày trường để thưởng thức thiên  nhiên với một tâm trạng lâng lâng, sảng khoái. Ức Trai giành cho mình một cái quyền Rồi hóng mát thuở ngày trường , bởi niềm mơ ước, nỗi trăn trở dày vò, mục đích lớn nhất của đời ông đã được thực hiện: dân ấm no, hạnh phúc". Qua nhiều lần thay đổi sách giáo khoa, gần đây bài Bảo kính cảnh giới số 43 của Nguyễn Trãi lại được chọn đưa vào phần đọc văn Ngữ văn 10 của hệ chương trình chuẩn (Phan Trọng Luận chủ biên) và hệ nâng cao (Trần Đình Sử chủ biên). So với sách giáo khoa ngữ văn trước đây, nhan đề bài thơ đã được đổi thành Cảnh ngày hè. Ngoài ra, ở câu 4 "Hồng liên trì đã tịn mùi hương" được đổi thành "Hồng liên trì đã tiễn mùi hương". Dù văn bản bài thơ đã có sự thay đổi, song định hướng khai thác về cơ bản không có gì thay đổi.          

  
3. Dù đã có những khác biệt trong cách khai thác chi tiết, nhưng về cơ bản, các soạn giả đều thống nhất khi cho rằng, chủ thể trữ tình xuất hiện trước thiên nhiên trong thời gian rảnh rỗi với một tâm trạng ung dung, thảnh thơi trong ngày hè. Từ đó, các soạn giả đã đi sâu khai thác ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên đầy sáng tạo của Nguyễn Trãi, và xem đó là một biểu hiện của sự cảm nhận tinh tế vẻ đẹp thiên nhiên của nhà thơ. Đây là  một cách tiếp cận có ý nghĩa. Tuy nhiên, theo chúng tôi, nếu chỉ dừng lại ở đó thì quả là chưa đủ. Với tư cách là một "bản tự thuật tâm trạng" (G.N.Pospelop), thơ trữ tình trước hết và bao giờ cũng là sự thể hiện một khát vọng được bày tỏ, được giao cảm, được sẻ chia những nỗi niềm sâu kín của tâm hồn. Chính vì vậy, để hiểu một bài thơ trữ tình, việc chỉ ra  những hình ảnh thơ độc đáo, những câu chữ cụ thể là cần thiết nhưng chưa phải là điều cơ bản. Cần phải thấy rằng, hồn cốt của một bài thơ là ở cái giọng điệu của nó. Dấu ấn tài năng, cá tính sáng tạo và những tiếng lòng sâu thẳm của thi nhân trước cuộc đời…đều được thể hiện qua giọng điệu bài thơ. Vì vậy, hiểu  bài thơ trước hết phải nắm bắt được cái giọng điệu của nó. Về  điều này, giáo sư Hoàng Ngọc Hiến trong cuốn Văn học và học văn đã viết: "Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài văn trước hết là ở cái giọng. Năng khiếu văn ở phần tinh tế nhất  là năng lực bắt được trúng cái giọng của văn bản mình đọc và tạo ra được giọng đích đáng cho tác phẩm mình viết". Từ cách nhìn ấy, có thể thấy "chủ âm" trong giọng điều của bài thơ Bảo kính cảnh giới số 43 không phải là niềm vui rạo rực trước thiên nhiên trong cảnh ngày hè mà là một niềm thao thức lớn trong tâm hồn nhà thơ, một khát vọng cháy bỏng được khẳng định mình, được đem hết sức lực, tâm huyết của mình, cống hiến cho dân,
          

4. Có một thực tế là cho đến nay, trong nhiều cuốn sách, văn bản bài thơ vẫn chưa được thống nhất. Đối chiếu một số văn bản trong các sách Ngữ văn 10 và một số sách tham khảo những năm qua, chúng tôi nhận thấy có sự không thống nhất về chữ mở đầu bài thơ. Các tài liệu như Nguyễn Trãi toàn tập5, sách giáo khoa Văn 10 do Nxb Giáo Dục xuất bản hằng năm và các tài liệu đã dẫn ở trên đều ghi là "Rồi hóng mát, thuở ngày trường". Trong khi đó, ở một số tài liệu khác như Quốc âm thi tập 6, Mấy vấn đề về phương pháp dạy thơ văn cổ Việt Nam7, Văn học 10 (Hội nghiên cứu giảng dạy thành phố Hồ Chí Minh) lại ghi là  "Rỗi hóng mát thuở ngày trường".
       
  
Từ "rồi" là một từ cổ. "Rồi" cũng có nghĩa giống "rỗi" đều được hiểu là thời gian rỗi rãi. Tuy nhiên, chữ "rỗi" có vẻ hiện đại hơn so với chữ "rồi". Nhưng đó chưa phải là điều quan trọng. Vấn đề là ở chỗ, sự thay đổi về thanh điệu sẽ làm mất đi cái sắc màu cổ điển của câu thơ, phá vỡ cái giọng điệu rất riêng, chứa đầy thông điệp của bài thơ, một yếu tố quan trọng mà sự cộng hưởng, tương hợp của nó với những yếu tố khác trong câu thơ sẽ gợi mở nhiều điều thú vị về bài thơ. Từ cách hiểu đó, theo chúng tôi, từ rồi trong văn bản sách giáo khoa hiện nay là hợp lý. Cũng rơi vào trường hợp thiếu thống nhất về văn bản bài thơ là trường hợp chữ "tiễn" ở câu 4. Sách giáo khoa những năm trước đây được ghi là "tịn", còn sách giáo khoa hiện nay lại ghi là "tiễn". Nội dung chú giải về hai từ này hoàn toàn trái ngược nhau. "Tịn mùi hương"  được chú là "hết mùi hương". Trong khi đó, "tiễn mùi hương" được chú là "toả hương ngào ngạt". Từ đó, hai câu "Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ/ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương" được hiểu là, "trong khi thạch lựu ở hiên  còn đang tiếp tục phun màu đỏ, thì sen hồng trong ao đã ngát mùi hương".  Sự thiếu nhất quán về văn bản và chú thích trong các sách giáo khoa và tài liệu tham khảo đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp nhận ý nghĩa bài thơ của giáo viên và học sinh. Nguyễn Ngọc San trong bài Thử bàn về vấn đề phiên Nôm 8 cho rằng, chữ "tịn" cũng là hình thức cổ của "tận". "Tịn"  hay "tận" cũng đều có nghĩa như nhau.  Theo ông, ở thế kỉ XV do chịu ảnh hưởng của cách đọc cũ nên "tịn" được viết thành "tiễn". Cách phiên âm giải nghĩa của Đào Duy Anh trong Nguyễn trãi toàn tập là chính xác khi ông cho rằng, "tịn"  tức hết, cũng như "tận". Ở nông thôn Thanh Nghệ người ta còn nói tịn tức là hết. Đến tịn nơi chứ không nói tận.
         

      
Theo chúng tôi, cách hiểu của ông Nguyễn Ngọc San là hợp lý. Chữ "tiễn" ở đây  phải được hiểu là "hết" chứ không thể hiểu là "tỏa ngát" được. Theo cách hiểu này, hai câu Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ/Hồng liên trì đã tiễn mùi hương là tả cảnh cuối mùa hạ chứ không phải là cảnh đương giữa mùa hạ. Theo lẽ thường, trong hoàn cảnh đó, cảnh vật thiên nhiên hiện ra trong con mắt nhà thơ sẽ không vui. Nhưng điều đáng nói ở đây là thiên nhiên  vào thời điểm cuối hè trong con mắt nhà thơ vẫn tràn đầy sức sống. Tất cả dường như đều muốn trỗi dậy, muốn bộc lộ hết vẻ đẹp của mình. Cây hòe trước hiên cứ như đang "đùn đùn" mà lên, đùn đùn mà toả rộng; cây lựu như đang "phun" ra những tia màu đỏ chói, như muốn cháy hết mình một lần cuối để chuẩn bị bước sang thu; Hoa sen đã "tịn" mùi  nhưng trong tri giác của nhà thơ vẫn ngát hương thơm (nói "không" là để nói "có ", nói đã "hết" nhưng trong tri giác của nhà thơ vẫn còn).
          

 5. Bài Bảo kính cảnh giới số 43 của Nguyễn Trãi là một bài thơ có tính chất răn dạy, giáo huấn nhưng cũng là bài thơ trong chùm thơ nói về tâm trạng của nhà thơ trong cuộc sống nhàn dật. Đó là những bài thơ được sáng tác trong thời kỳ ông không còn được nhà vua tin dùng. Tâm trạng  ông luôn chứa đầy mâu thuẫn. Một bên là lạc thú nhàn tản, một bên là nợ quân thần cần báo đáp. Vì vậy, dù sống trong cảnh ẩn dật, nhưng lòng nhà thơ vẫn không yên. Để hiểu đúng bài thơ, không thể không lưu ý đến điều này.        

     
  Bài thơ được mở đầu bằng một câu thơ với những tín hiệu đặc biệt: "Rồi hóng mát thuở ngày trường". Chữ "rồi" đứng đầu câu thơ tạo nên ý nghĩa nhấn mạnh thời gian rỗi rãi. Ý nghĩa đó lại được bổ sung, khắc đậm bởi ba chữ "thuở ngày trường" (Thuở- ngày- trường đều là những từ ngữ chỉ thời gian dài). Thêm vào đó, nhịp ngắt 1/5 khiến cho câu thơ có một giọng điệu riêng. Toàn bộ câu thơ gợi lên một ý nghĩa: thời gian trôi đi quá chậm!  Xét về nghĩa tường minh, câu thơ diễn tả một trạng thái  ung dung, thảnh thơi của Nguyễn Trãi trong ngày hè như nhiều người đã cảm nhận. Nhưng xét về nghĩa hàm ẩn, câu thơ không đưa đến một cảm giác thú vị nào trong việc  ngồi "hóng mát". Cũng như cách Nguyễn Trãi ca ngợi thú nhàn trong bài  Côn Sơn ca :
 
 
Côn Sơn suối chảy rì rầm

Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Côn Sơn có đã rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm

Trong ghềnh thông mọc như nêm
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm
Tro
ng rừng có bóng trúc râm
Dưới màu xanh ngát ta ngâm thơ nhàn.
  

                   
 (Bản dịch thơ chữ Hán Nguyễn Trãi )
       

      
Chữ "nhàn" (rỗi) vẫn thường đi về trong  thơ Nguyễn Trãi, nhưng đó chỉ là cách nói. Ở Nguyễn Trãi, thân có thể nhàn, nhưng tâm không bao giờ nhàn. Câu thơ "Rồi hóng mát thuở ngày trường" hé mở một nỗi buồn, bức xúc trong tâm trạng thi nhân. Và nữa, trong cái nhìn của Nguyễn Trãi, hoa sen cuối hạ vẫn mang một vẻ đẹp riêng, một sức sống tiềm tàng. Ở một tầng nghĩa khác, ý niệm về thời gian cuối hè, và sự xuất hiện trong tri giác mùi hương của hoa sen lại ẩn chứa  một nỗi niềm bâng khuâng thao thức của nhà thơ trước sự  chuyển biến, tan phai dần của cái đẹp. Qua cách nhìn thiên nhiên đó, ta nhận rõ  sự nhạy cảm, tinh tế đến mức tuyệt vời  trước vẻ đẹp thiên nhiên của Nguyễn Trãi. Mặt khác, phẩm chất tinh thần mạnh mẽ  trong tâm hồn nhà thơ phần nào được hé lộ. Đó là nỗi khao khát đến cháy bỏng được bộc lộ mình như những cây hoè, cây lựu, cây sen… Đây cũng là một phương thức trữ tình quen thuộc trong thơ Nguyễn Trãi mà ta đã từng bắt gặp  ở bài Tùng . Ở đó, nhà thơ đã mượn  hình ảnh cây tùng để gửi gắm nỗi  khát khao của mình: Thu đến cây nào chẳng lạ lùng/Một mình lạt thuở ba đông…  Cây tùng của Nguyễn Trãi cũng như những hình ảnh kia, không thể nhầm lẫn với "rừng tùng" nói chung trong văn học. Có thể nói, thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi  mang một vẻ đẹp độc đáo vì nhà thơ đã hóa thân, hóa hồn vào trong đó.

           Nếu như trung tâm chú ý của nhà thơ ở những câu đầu là màu sắc, hương thơm của cảnh vật thì ở những câu sau, nhà thơ lại hướng tới âm thanh - những âm thanh của niềm vui: tiếng lao xao chợ cá nơi đông người và tiếng ngân vang của những "nhạc sĩ mùa hè". Những âm thanh đó hòa trộn vào nhau gợi hình ảnh một cuộc sống trù phú, thanh bình, yên ả của làng quê trong cảnh đất nước được giải phóng. Thế nhưng, lắng sâu trong những âm thanh đó, trong tiếng lao xao chợ cá từ xa vọng lại, tiếng cầm ve trong buổi chiều tà, dường như ẩn chứa một nỗi bâng khuâng thầm kín trong tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ. Và nỗi niềm của Nguyễn Trãi được bộc lộ  trực tiếp  trong hai câu kết:   Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng  Dân giàu đủ, khắp đòi phương.         

         
Nguyễn Trãi khát khao có được cây đàn của vua Thuấn ngày trước để ca ngợi cuộc sống hôm nay. Câu thơ 6 chữ kết đọng điều tác giả hằng mong mỏi, tâm niệm suốt đời. Thì ra, trong cảnh nhàn nhà, Nguyễn Trãi trước sau vẫn là "Bui một tấc lòng ưu ái cũ/ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông". Thêm một lần nữa, ta hiểu cái "rồi hóng mát"  ở câu mở đầu bài thơ chỉ là một cách nói. Tâm hồn ông không bao giờ ngơi nghỉ. Thân có nhàn nhưng tâm chẳng bao giờ nhàn. Khát vọng thường trực của ông là được đem tài năng, sức lực của mình cống hiện cho dân, cho nước. 
          

6. Như chúng ta đã biết, trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Bảo kính cảnh giới số 43 (gương báu răn mình) thuộc loại thơ mang tính giáo huấn. Nhưng không phải bài nào cũng có nội dung giáo huấn trực tiếp. Bài số 43 là một bài như vậy. Ý nghĩa giáo huấn của bài thơ thể hiện một cách gián tiếp, xuyên thấm qua hình ảnh, giọng điệu bài thơ. Đọc bài thơ, ta không tìm thấy một lời răn dạy trực tiếp nào, chỉ thấy một tiếng lòng thiết tha, một khát vọng lớn muốn khẳng định mình, muốn cho người dân đất Việt khắp nơi được sống hạnh phúc, ấm no. Vẻ đẹp tâm hồn, khát vọng sống của nhà thơ luôn ám ảnh trong tâm hồn mỗi chúng ta. Đó chính là lời giáo huấn sâu sắc nhất, có "hiệu quả" nhất mà bài thơ mang lại. Từ cách hiểu đó, thiết nghĩ không nên đặt nhan đề cho bài thơ là Cảnh ngày hè mà nên giữ nguyên nhan đề như nó bấy lâu nay đã từng tồn tại .
     

       
Chúng tôi luôn ý thức một cách sâu sắc rằng, thấu cảm và truyền thụ được cho học sinh cái hay, cái đẹp  của một bài thơ trữ tình tinh tế, sâu sắc như bài Bảo kính cảnh giới số 43 của Nguyễn Trãi là một công việc hết sức khó khăn. Một tác phẩm hay không bao giờ là một tác phẩm dễ hiểu, đơn nghĩa. Vẻ đẹp tinh tế của nó luôn tiềm ẩn, mở ngỏ cho mọi sự tìm tòi, khám phá. Vì vậy, những ý kiến trên đây của chúng tôi chỉ là một trong những cách hiểu, một hướng tìm tòi. Qua thực tế giảng dạy bài thơ trên ở lớp 10 trong nhiều năm qua, chúng tôi nhận thấy về cơ bản, các em  có hứng thú học tập và tỏ ra tiếp nhận được những giá trị cơ bản của bài thơ. Chính điều đó đã giúp chúng tôi tự tin hơn về cách hiểu và hướng khai thác trên đây của mình.
                                                                                                    
-----------------
*1. Nhan đề bài thơ Bảo kính cảnh giới số 43 được tác giả SGK đặt lại là "Cảnh ngày hè".

2.Nguyễn Đình Chú- Nguyễn Lộc chủ biên, Văn học 10, tập 1 (Sách giáo viên), Nxb Giáo Dục, H. 2000. tr 97.
3 . Sdd, tr 98.
4 . Lã Nhâm Thìn, Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb Giáo Dục, H. 1997, tr 151.
5 . Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, H.1976, tr 453
6.
.Nguyễn Trãi, Quốc âm thi tập, Nxb Văn -Sử -Địa, H 1956, tr 43
7. Nguyễn Sĩ Cẩn, Mấy vấn đề về phương pháp dạy thơ văn cổ Việt Nam,  Nxb Giáo Dục, H.1984, tr 131
8. Nguyễn Ngọc San, Thử bàn về vấn đề phiên Nôm Bài tham gia Hội nghị chữ Nôm Quốc tế (Ngày 12-14 tháng 11, năm 2004),Thư viện Quốc gia Việt Nam.  

 

BÌNH LUẬN, TRAO ĐỔI:   

 

 VỀ VĂN BẢN & HƯỚNG KHAI THÁC BÀI THƠ

BẢO KÍNH CẢNH GIỚI SỐ 43 CỦA NGUYỄN TRÃI

 

     (Nguyễn Mạnh Bình -THPT Nguyễn Đình Chiểu- Mỹ tho)

 

        
                   Thật là tuyệt! Đã lâu rồi tôi chưa được đọc bài trao đổi với đồng nghiệp về văn bản và nhận thức văn bản  ở mức độ lý thú như thế này!          
   Trong 06 mục của bài viết, mỗi mục đều có chính kiến rõ ràng và sâu sắc. Đó là kết quả từ thực tiễn trong nghiên cứu giảng dạy một cách thấu đáo và trách nhiệm của người Thầy trước học sinh, trước những giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tiền nhân chứ không chỉ như những người soạn sách …
1)               Về hiểu văn bản ngữ nghĩa trong cấu trúc văn bản: Độ vênh đến sai lạc về nghĩa có thể thấy được ở từ tịn tiễn…Bởi chỉ căn cứ vào tính chất đối của cặp câu thực( c3, 4) thì cái còn (c3) :Ở trên hiên, thạch lựu vẫn còn phun trào như lửa, như bầu nhiệt huyết của Nguyễn Trãi  (mặc dù khi ấy ông không còn được tin dùng như xưa nữa!). Thế mà ở dưới ao, sen đã tịn mùi hương!(c4). Cái vế đối chan chát ấy (giữa còn và mất) nó cần một sự lý giải thỏa đáng hơn để hiểu tâm trạng của N.T : Phải chăng vào lúc cuối hạ sang thu của cuộc đời, cảnh ấy là tình đấy: Khát khao cống hiến mà  lại bị triều đình quên lãng… [Tôi cũng chưa thật rõ lắm về ý khai thác cái mất và còn mà Thanh Vân đã viết trong bài: …” Hoa sen đã "tịn" mùi  nhưng trong tri giác của nhà thơ vẫn ngát hương thơm (nói "không" là để nói "có ", nói đã "hết" nhưng trong tri giác của nhà thơ vẫn còn) ”.]
2)               Cặp câu luận (5-6), hướng khai thác của TV như thế là rất hợp lý  "Thế nhưng, lắng sâu trong những âm thanh đó, trong tiếng lao xao chợ cá từ xa vọng lại, tiếng cầm ve trong buổi chiều tà, dường như ẩn chứa một nỗi bâng khuâng thầm kín trong tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ. Và nỗi niềm của Nguyễn Trãi được bộc lộ  trực tiếp  trong hai câu kết:  “ Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng  Dân giàu đủ, khắp đòi phương.”]
                 Lại xem về kết cấu văn bản và thể loại thì cái vuiLao xao chợ cá…” (c5) nó chọi với cái buồnDắng dỏi cầm ve…”(c6); Ông vui buổi sớm với chợ cá, nơi dân đen tảo tần vui sống ( Chứ ai họp chợ cá vào buổi chiều!) nó đối chọi với cái ông buồn vào buổi tà dương khi hướng về phía lầu son gác tía nào đó…Như vậy ta đã rõ khi hướng đến cái kết của bài với khát khao cháy bỏng của N.T Khát khao tiếng Ngu cầm để Dân giàu đủ khắp đòi phương…
3)
                Nhìn toàn cục bài “BKCG-43” được viết bằng chữ Nôm để ngân lên âm thanh của tiếng Việt thân yêu , nhưng ta không thể không nói tới cách tân , Việt hóa thể thơ 7 chữ của TQ :Chính hai câu lục ngôn rất quan trọng: mở đầu và khóa đuôi bài thơ với thanh điệu, nhịp điệu biến đổi hoàn toàn đã thổi vào bài thơ cái giọng điệu đầy trăn trở của một Con Người có tâm hồn “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông” lo cho dân, cho nước….Cũng chính vì vậy mà tôi rất tán đồng với TV rằng: Ai xui người ta đổi tên bài thơ như thế? Phải chăng đó là do cảm nhận chủ quan của người biên soạn sách? Cảnh tình mùa hè sao có thể thay thế cho cái tựa của chùm BKCG vốn bản chất của nó đã đầy trăn trở !
4)               Cuối cùng, rất cám ơn TV về bài viết đặc sắc này và xin phép tác giả cho tôi được đăng lại trên blogs của tôi để đồng nghiệp khác và học trò của tôi tham khảo .Cũng xin mượn lời của TV (một nhận định rất hay) để làm kết phần bình luận này
” Từ cách nhìn ấy, có thể thấy "chủ âm" trong giọng điều của bài thơ Bảo kính cảnh giới số 43 không phải là niềm vui rạo rực trước thiên nhiên trong cảnh ngày hè mà là một niềm thao thức lớn trong tâm hồn nhà thơ, một khát vọng cháy bỏng được khẳng định mình, được đem hết sức lực, tâm huyết của mình, cống hiến cho dân,cho  nước.     “  

                                                                                                                                                                              14/9/2007
MB  

 


« Các bài cũ hơn · Nguyễn Mạnh Bình · Các bài mới hơn »

Bình luận

nguyen thi thu thuy
Dec 20 2011, 10:20 AM
Bình luận #1


Unregistered









do ec eng eng chan ngat
Quote Post
Guest_phuong thao_*
Feb 17 2012, 05:58 PM
Bình luận #2


Unregistered









hay quá thầy ơi, em cảm ơn thầy nhiều. em đang thuyết trình về bài này nè, tìm tư liệu về nó mãi. hihi
Quote Post

 

 Trả lời nhanh
Nhập vào tên của bạn:
Nhập mã số xác nhận (bắt buộc):
» Hiển thị cửa sổ mặt cười       » Download bộ gõ tiếng Việt Unikey
 Bạn có muốn chuyển các ký hiệu như :) :( :D ...thành mặt cười trong bài viết này?
 Bạn có muốn chèn thêm chữ ký vào bài viết này ?
 


 
Lượt xem thứ:





Mạng xã hội của người Việt Nam.
VnVista I-Shine © 2005 - 2024 VnVista.com