Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam - Trần Ngọc Thêm
Bản chất con người chỉ bộc lộ ra trong giao tiếp. Chữ
"nhân" với nghĩa là "tính người" bao gồm chữ
"nhị" và bộ "nhân đứng" - tính người bộc lộ trong quan hệ
giữa hai người. Trước hết, xét về thái độ của người Việt Nam đối với việc
giao tiếp, có thể thấy được đặc điểm của người Việt Nam là vừa thích giao tiếp,
lại vừa rất rụt rè. Việc thích giao tiếp này thể hiện chủ yếu ở hai điểm : thích thăm
viếng, tính hiếu khách. Đồng thời với việc thích giao tiếp, người Việt Nam lại
có một đặc tính hầu như ngược lại là rất rụt rè - điều mà những người quan sát
nước ngoài rất hay nhắc đến. Sự tồn tại đồng thời hai tính cách trái ngược nhau
(tính thích giao tiếp và tính rụt rè ) này bắt nguồn từ hai đặc tính cơ bản của
làng xã Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị .Hai tính cách tưởng như
trái ngược nhau ấy không hề mâu thuẫn với nhau vì chúng bộc lộ trong những môi
trường khác nhau, chúng chính là hai mặt của cùng một bản chất, là biểu hiện
cách ứng xử linh hoạt của người Việt Nam. Xét về quan hệ giao tiếp, nguồn gốc văn hóa nông nghiệp với đặc điểm trọng tình
đã dẫn người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm - lấy sự yêu sự ghét - làm nguyên
tắc ứng xử, sống có lí có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn. Với đối tượng giao tiếp, người
Việt Nam có thói quen ưa tìm hiểu, quan sát, đánh giá. Tuổi tác, quê quán, trình
độ học vấn, địa vị xã hội, tình trạng gia đình (bố mẹ còn hay mất, đã có
vợ/chồng chưa, có con chưa, mấy trai mấy gái,...) là những vấn đề người Việt
Nam thường quan tâm.Do phân biệt chi li các quan hệ xã hội, mỗi cặp giao tiếp đều có những
cách xưng hô riêng, nên nếu không có đầy đủ thông tin thì không thể nào lựa
chọn từ xưng hô cho thích hợp được.
Tính cộng đồng còn khiến cho người Việt Nam, dưới gốc độ chủ thể giao tiếp, có
đặc điểm là trọng danh dự : Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch rách cho thơm;
Trâu chết để da, người ta chết để tiếng. Danh dự được người Việt Nam gắn với
năng lực giao tiếp : Lời nói ra để lại dấu vết, tạo thành tiếng tăm, nó được
truyền đến tai nhiều người, tạo nên tai tiếng. Về cách
thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận. Lối
giao tiếp ưa tế nhị khiến người Việt Nam có thói quen giao tiếp "vòng vo
tam quốc", không bao giờ mở đầu trực tiếp, nói thẳng vào vấn đề như người
phương Tây. Truyền thống Việt Nam khi bắt đầu giao tiếp là phải vấn xá cầu
điền, hỏi thăm nhà cửa ruộng vườn. Cũng để tạo không khí, để đưa đẩy, người
Việt Nam trước đây có truyền thống "miếng trầu là đầu câu chuyện".
Với thời gian, trong chức năng "mở đầu câu chuyện" này, "miếng
trầu" từng được thay thế bằng chén trà, điếu thuốc, ly bia...Lối giao tiếp "vòng vo tam quốc"
kết hợp với nhu cầu tìm hiểu về đối tượnggiao tiếp tạo ra ở người Việt Nam thói
quen chào hỏi - "chào" đi liền với "hỏi" : "Bác đi đâu
đấy ?", "Cụ đang làm gì đấy?"... Ban đầu, hỏi là để có thông
tin, dần dần trở thành một thói quen, người ta hỏi mà không cần nghe trả lời và
hoàn toàn hài lòng với những câu "trả lời" kiểu : "Tôi đi đằng
này một cái" hoặc trả lời bằng cách hỏi lại : Cụ đang làm gì đấy? Đáp :
Vâng ! Bác đi đâu đấy? Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ là sản phẩm của lối sống
trọng tình và lối tư duy coi trọng các mối quan hệ (tư duy biện chứng). Nó tạo
nên một thói quen đắn đo cân nhắc kĩ càng khi nói năng : Ăn có nhai, nói có
nghĩ; Chó ba quanh mới nằm, người ba năm mới nói; Biết thì thưa thốt, không
biết thì dựa cột mà nghe; Khôn cũng chết, dại cũng chết, ai biết thì sống;
Người khôn ăn nói nữa chừng, Để cho kẻ dại nữa mừng nữa lo,...Chính sự đắn đo
cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm thiếu tính quyết đoán. Người Việt Nam có một hệ thống nghi thức lời nói
rất phong phú.Trước hết, đó là sự phong phú trong hệ thống xưng hô bằng các từ
chỉ quan hệ họ hàng. Hệ thống xưng hô này có các đặc điểm : Thứ nhất, có tính
chất thân mật hóa (trong tình cảm), coi mọi người trong cộng đồng như bà con họ
hàng trong một gia đình. Thứ hai, có tính chất xã hội hóa, cộng đồng hóa cao -
trong hệ thống từ xưng hô này, không có cái "tôi" chung chung.
Quan hệ xưng hô phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian
giao tiếp - chú khi ni , mi khi khác. Cùng là hai người, nhưng cách xưng hô có
khi đồng thời tổng hợp được hai quan hệ khác nhau : Chú-con, bác-con, bác-em,
anh-tôi,... Lối gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên chồng; bằng thứ tự sinh (
Cả, Hai, Ba, Tư...). Thứ ba, thể hiện tính tôn ti kĩ lưỡng: Người Việt Nam xưng
và hô theo nguyên tắc xưng khiêm hô tôn (gọi mình thì khiêm nhường, còn gọi đối
tượng giao tiếp thì tôn kính). Cùng một cặp giao tiếp, nhưng có khi cả hai đều
cùng xưng hô là em và đều cùng xưng là em và đều gọi nhau là chị. Việc tôn
trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng : người ta chỉ gọi tên cái ra để
chửi nhau; đặt tên con cần nhất là không được trùng với tên của những người bề
trên trong gia đình, gia tộc cũng như ngoài xã hội. Vì vậy mà trước đây có tục
nhập gia vấn húy (vào nhà ai, hỏi tên chủ nhà để khi nói nếu có động đến từ đó
thì phải nói lệch đi).Nghi thức lời nói trong lĩnh vực cách nói lịch sự cũng
rất phong phú. Do truyền thống nặng về tình cảm và linh hoạt nên người Việt Nam
không có những từ cảm ơn, xin lỗi khái quát dùng chung cho mọi người trường hợp
như người phương Tây. Cũng như trong xưng hô, đối với mỗi người ta có một cách
cảm ơn, xin lỗi khác nhau : Con xin chú (Cảm ơn khi nhận quà), Chị chu đáo quá,
Anh tốt quá (cảm ơn khi được quan tâm), Bác bày vẽ quá (cảm ơn khi được tiếp
đón nồng hậu), Quý hóa quá (cảm ơn khi có khách đến thăm), Anh quá khen (cảm ơn
khi được khen),... Nghệ
thuật ngôn từ Việt Nam có tính biểu trưng cao. Tính biểu tượng thể hiện ở xu
hướng khái quát hóa, công thức (ước lệ) hóa với những cấu trúc cân đối, hài
hòa. Trong những trường hợp,
người châu Âu dùng từ "tất cả" thì người Việt dùng các từ chỉ số
lượng ước lệ : ba thu, nói ba phải, ba mặt một lời, năm bè bảy mối, tam khoanh
tứ đốm, Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo ..., trăm dâu đổ một đầu tằm, trăm khôn
ngàn khéo, tiền trăm bạc vạn, trăm họ, vạn sự, muôn dân, muôn vật,...Lối tư duy
tổng hợp mọi yếu tố, lối sống ổn định có quan hệ tốt với hết thảy mọi người dẫn
đến xu hướng trọng sự cân đối hài hòa trong ngôn từ - một biểu hiện khác của
tính biểu trưng. Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của tiếng
Việt.Các thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt đều cấu tạo theo cấu trúc có 2
vế đối ứng : trèo cao/ ngã đau; ăn vóc/học hay; một quả dâu da/ bằng ba chén
thuốc; biết thì thưa thốt/ không biết thì dựa cột mà nghe. Tiếng Việt rất phát triển hình thức câu đối, rất phát triển thơ. Câu đối là một
loại sản phẩm văn chương đặc biệt, nó vừa công phu tỉ mỉ, lại vừa cô đúc ngắn
gọn. Trong một tác phẩm "mini" ấy thể hiện đủ cả cái đẹp cân đối nhịp
nhàng của hình thức và cái uyên thâm của chiều sâu triết lí Đông Phương. ở Việt
Nam xưa kia, nhà nhà, đình đình, chùa chùa... nơi nào cũng đều có treo câu
đối. Lịch sử nhiều nghìn năm của Việt Nam đều là lịch sử của thơ
ca - một thứ thơ ca có cấu trúc chặt chẽ ( lục bát, song thất lục bát) và vần
điệu nghiêm ngặt thể hiện sự cân đối hài hòa. Văn hóa gốc Nông Nghiệp với
bản tính Tĩnh tất thiên về trình bày tâm lí tình cảm với bút pháp biểu trưng và
lối diễn đạt cân xứng nhịp nhàng - tất cả những đặc trưng đó chỉ có thể tìm
thấy sự biểu hiện tập trung trong thơ (ở Việt Nam, thơ tự do chỉ mới xuất hiện
sau này - vào đầu thế kỉ XX, do ảnh hưởng của Phương Tây).ở Việt Nam, văn xuôi
truyền thống cũng là một thứ văn xuôi thơ, thế mạnh đó còn do tiếng Việt là một
ngôn ngữ giàu thanh điệu, tự thân các thanh điệu đã tạo nên tính nhạc cho câu
văn rồi. Từ những bài văn xuôi viết theo lối biền ngẫu như Hịch tướng sĩ của Trần
Quốc Tuấn, hoặc tự do như thư dụ hàng của Nguyễn Trãi gửi địch, cho tới những
lời văn nôm bình dân ... khắp nơi, ta đều gặp một lối cấu trúc cân đối, nhịp
nhàng, chặt chẽ và có tiết tấu, vần điệu. Thậm chí ngay cả trong việc chửi nhau,
người Việt cũng chửi nhau một cách có bài bản, cân đối, nhịp nhàng, đầy chất
thơ. Với lối chửi có vần điệu, có cấu trúc chặt chẽ, người Việt Nam có thể chửi
từ giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác mà không hề nhàm chán. Đó là
một thứ "nghệ thuật" độc đáo vô nhị mà không một dân tộc nào trên thế
giới có được.Đây là lời chửi của một người đàn bà mất gà được ghi lại trong
tiểu thuyết Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan : Làng trên xóm dưới, bên trước
bên sau, bên ngược bên xuôi ! Tôi có con gà mái xám nó sắp ghẹ ổ, nó lạc ban
sáng, mà thằng nào con nào, đứa ở gần mà qua, đứa ở xa mà lại, nó dang tay mặt,
nó đặt tay trái, nó bắt mất của tôi, thì buông tha thả nó ra, không tôi chửi
cho đơới!.Chém cha đứa bắt gà nhà bà ! Chiều hôm qua, bà cho nó ăn nó hãy còn
sáng hôm nay con bà gọi nó nó hãy còn, mà bây giờ nó đã bị bắt mất. Mày muốn
sống mà ở với chồng với con mày, thì buông tha thả bỏ nó ra, cho nó về nhà bà.
Nhược bằng mày chấp chiếm, thì bà đào mả thằng tam tứ đại nhà mày ra, bà khai
quật bật săng thằng ngũ đại lục đại nhà mày lên. Nó ở nhà bà, nó là con gà, nó
về nhà mày, nó biến thành cú thành cáo, thành thần nanh đỏ mỏ; nó mổ chồng mổ
con, mổ cả nhà mày cho mà xem.ới cái thằng chết đâm, cái con chết xỉa kia! Mày
mà giết gà nhà bà thì một người ăn chết một, hai người ăn chết hai, ba người ăn
chết ba. Mày xuống âm phủ, mày bị quỷ sử thần linh rút ruột ra. Ơi cái thằng
chết đâm cái con chết xỉa.Ngay trong những tiểu thuyết xuất hiện dưới ảnh hưởng
của văn xuôi Phương Tây cũng vẫn mang rất đậm dấu ấn của truyền thống cân đối
nhịp nhàng, biểu trưng ước lệ. Đây là những câu văn tả người của Tản Đà : Tiếng
nói nhẹ nhàng bao nhiêu, dáng người mềm bấy nhiêu; mềm bao nhiêu, chín bấy
nhiêu, tươi bấy nhiêu, tình bấy nhiêu. Như ghét, như yêu, như chiều, như
ngượng. Lông mày ngài, đôi mắt phượng, cô chờ ai? (Giấc mộng con).Đặc điểm thứ hai của nghệ
thuật ngôn từ Việt Nam là nó rất giàu chất biểu cảm- sản phẩm tất yếu của một
nền văn hóa trọng tình cảm.Về mặt từ ngữ chất biểu cảm này thể hiện ở chỗ các
từ, bên cạnh yếu tố gốc mang sắc thái nghĩa trung hoà, thường có rất nhiều biến
thể với những sắc thái nghĩa biểu cảm : Bên cạnh màu xanh trung tính, có đủ thứ
xanh rì, xanh rờn, xanh rợn, xanh ngắt, xanh um, xanh lè... Bên cạnh màu đỏ
trung tính có đỏ rực, đỏ âu, đỏ lòm, đỏ loét, đỏ hoe... Các từ lấy mang sắc
thái biểu cảm mạnh cũng rất phổ biến trong tiếng Việt ( ở các ngôn ngữ khác, kể
cả tiếng Hán, đều hầu như không có). ở trên vừa nói tiếng Việt thiên về thơ, mà
thơ là mang đậm chất tình cảm rồi, cho nên từ láy với bản chất biểu cảm rất phù
hợp với nó (xem thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,..).Về mặt ngữ pháp, tiếng Việt sử
dụng rất nhiều các hư từ có sắc thái biểu cảm : à, ư, nhỉ, chăng, chớ, hả, hở,
phỏng, sao, chứ...Cấu trúc "iếc hóa" mang sắc thái đánh giá ( sách
siết, bàn biếc,..) cũng góp phần quan trọng làm tăng cường hệ thống các phương
tiện biểu cảm cho tiếng Việt.Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có đặc điểm thứ ba là tính động, linh
hoạt Trong tiếng Việt thì tùy theo ý đồ của người nói mà anh ta có thể diễn đạt,
không thể diễn đạt hay diễn đạt nhiều lần một ý nghĩa ngữ pháp nào đó : Tôi đi
Hà Nội, Tôi sẽ đi Hà Nội, Ngày mai tôi đi Hà Nội, Ngày mai tôi sẽ đi Hà Nội.
Chính vì linh hoạt như vậy mà tiếng Việt có khả năng diễn đạt khái quát rất
cao, có thể nói một câu không thời, không thể, không ngôi. Khả năng diễn đạt
khái quát, mơ hồ chính là điều kiện rất quan trọng cho việc phát triển thơ ca
đã nói đến ở trên.Tính động, linh hoạt của ngôn từ Việt Nam còn bộc lộ ở chỗ
trong lời nói, người Việt rất thích dùng cấu trúc động từ : trong một câu có
bao nhiêu hành động thì có bấy nhiêu động từ; trong khi đó thì các tiếng phương
Tây có xu hướng ngược lại- rất thích dung danh từ. Trong khi người Việt nói :
Cảm ơn anh đã tới nhà chơi thì người Anh nói : Thank you for your coming (Cảm
ơn về sự đến chơi của anh).Tính linh hoạt, năng động còn nguyên nhân khiến cho
tiếng Việt rất ít dùng cầu trúc bị động. Người Việt thậm chí dùng cấu trúc chủ
động ngay cả trong câu bị động : Trong khi người Việt nói : Lan bị thầy giáo
phạt thì người Anh nói Linda was punished by the teacher (Linda bị phạt bởi
thầy giáo).Như vậy, có thể nói rằng trong giao tiếp, người Việt Nam có thiên
hướng nói đến những nội dung tĩnh bằng hình thức động . Trong khi đó thì người phương Tây nói riêng và truyền
thống văn hóa trọng dương nói chung lại có thiên hướng nói đến những nội dung
động (hành động, sự việc, dẫn đến nghệ thuật văn xuôi và phương pháp tả thực)
bằng hình thức tĩnh ( kiến trúc danh từ, ngữ pháp hình thức chặt chẽ).
Mới hay,
ngôn ngữ thực sự là tấm gương phản chiếu văn hóa dân tộc và tác động của luật
âm dương (trong âm có dương , trong dương có âm; âm sinh dương, dương sinh âm)
thật là rộng lớn và sâu xa !