Bản in của bài viết

Click vào đây để xem bài viết này ở định dạng ban đầu

Kí ức tuổi học trò......12A11...We are Friends Forever...

Ngành giấy VN!

Nghe nói cái dzụ thuyết trình này là đến hết HKI lun phải hem ta? T__T
Trân sưu tầm được mấy tài liệu nè,ai lấy cái nào thì nhớ báo cho pà koan biết hong thui đụng hàng nha ^^'

Ngành giấy Việt Nam trước ngưỡng WTO

Phát biểu tại Đại hội Hiệp hội giấy lần thứ 4 ngày 16/10/2006, ông Bảo nói, vào thời điểm năm 1975 sản lượng giấy của Việt Nam và Indonesia tương đương nhau, khoảng  46.000 tấn/năm, nhưng đến năm 2005 thì sản lượng giấy của Indonexia là 7.800.000tấn, còn Việt Nam là 824.000 tấn.

Ngành giấy đã làm được gì?

Ngành giấy Việt Nam trong 20 năm qua đã đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm 15%-16%, sản lượng từ 80.000 tấn/năm đã tăng lên tới 824.000 tấn/năm. Nhưng chủng loại giấy sản xuất trong nước vẫn rất nghèo nàn, chỉ có giấy in báo, giấy in và viết, giấy bao gói (không tráng), giấy lụa. Dù đã đầu tư tới 112.000 tấn /năm cho sản xuất giấy tráng, nhưng đến nay hầu như chỉ sản xuất giấy không tráng.

Năm 2005 khả năng đáp ứng tiêu dùng trong nước của toàn ngành giấy là 61,92%, trong đó giấy in báo đáp ứng 68,42%, giấy in và viết 89,29%, giấy bao bì (không tráng) 71,50%, giấy tráng 5,75% và giấy lụa 96,97%.

Hiện nay sản xuất bột giấy ở Việt Nam mới đáp ứng được 37% nhu cầu, còn lại vẫn phải nhập khẩu. Trước đây chỉ nhập bột tẩy trắng, nay bột giấy không tẩy trắng ngày càng nhập nhiều, vì các cơ sở phải ngừng sản xuất do không có khả năng xử lý nước thải và quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu.Với khả năng rừng đủ để sản xuất bột giấy đáp ứng cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu, rõ ràng phương thức phân bổ nguồn lực cho phát triển kém hiệu quả. Nếu chỉ cần khoảng 400 -500 triệu USD (một khoản đầu tư khiêm tốn so với nền kinh tế ) thì đến nay ngành giấy đã chủ động hoàn toàn về bột giấy và còn dư để xuất khẩu.

Năm 2005, mức tăng trưởng của sản xuất giấy chỉ đạt 9,32%, nguyên nhân là do giấy bao bì sản xuất ra không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng. Xét các yếu tố kinh doanh, ngành giấy vẫn thua thiệt nhiều mặc dù chí phí về lao động rẻ, nhưng năng suất lao động lại thấp. Một lao động trong ngành giấy của Nhật Bản một năm sản xuất gần 806 tấn giấy thì của Việt Nam chỉ đạt 140 tấn. Chỉ những cơ sở lớn, công nhân mới được đào tạo bài bản, còn phần lớn là rời "tay cấy" ra đứng máy và trưởng thành trong thực tiễn.

4 điểm yếu của ngành giấy

Trình độ công nghệ của ngành giấy Việt Nam  hiện đang ở  mức dưới trung bình của thế giới, nên chất lượng chỉ ở mức trung bình thấp. Cung cách quản lý ở cơ sở lớn vẫn mang dáng dấp kế hoạch hóa, còn ở cơ sở nhỏ mang tính chất gia đình.

Do lệ thuộc vào bột nhập khẩu nên sức cạnh tranh của ngành giấy yếu. Dây chuyền bột giấy lớn nhất nước ta hiện chỉ đạt công suất 61.000 tấn/năm, trong khi ở đảo Hải Nam (Trung Quốc) là 1.000.000 tấn/năm. Máy seo lớn nhất của ta có công suất 50.000 tấn/năm, chiều rộng lưới là 4,15m, tốc độ 600-700 m/phút. Còn ở Trung Quốc, đó là 800.000 tấn /năm, chiều rộng 10,4m và tốc độ 2.000 m/phút.

Hợp tác trong nội bộ ngành cũng yếu kém. Tại  xã Phong Khê, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh có những gia đình có 3 dây chuyền sản xuất giấy, nhưng cả 3 dây chuyền cùng mua của 1 hãng, cùng công suất. Phương thức mua chịu, bán chịu là phổ biến, nên khi một khâu gặp khó khăn sẽ kéo theo tất cảc các khâu khác phải chịu. Rất ít cơ sở chịu công khai giá mua, bán nguyên vật liệu, mà che dấu rất kỹ.

Hầu hết các doanh nghiệp đều mua nguyên liệu nhỏ lẻ, không theo kế hoạch, chưa bao giờ ký hợp đồng kỳ hạn mua bột giấy cho dù kế hoạch đã được xác định. Từ đầu năm đến hết tháng 7/2006, chúng ta đã nhập 78.000 tấn bột giấy, nhưng do 29 công ty nhập khẩu (bình quân mỗi công ty 2.690 tấn), với 172 đơn hàng (bình quân 453 tấn/đơn hàng). Đơn hàng nhập lớn nhất là 2.000 tấn, nhỏ nhất là 1 tấn. Nhập như vậy phải chịu giá cao và luôn luôn bị động.

Cả ngành giấy và từng doanh nghiệp đến nay chưa có chiến lược huy động vốn, chủ yếu vẫn qua những kênh xoanh quanh vốn nhà nước, ngân hàng và các quỹ. Nguồn vốn quan trọng là huy động qua thị trường chứng khoán lại chưa được khai thác. Kinh nghiệm của công ty cổ phần giấy Hải Phòng (Hapaco) cho thấy điều này không phải là khó. Từ một doanh nghiệp nhỏ, sản xuất giấy vàng mã cấp thấp, sau 5 năm tham gia thị trường chứng khoán  đến nay Hapaco đã đủ vốn mua lại nhiều nhà máy, công ty sản xuất giấy, đầu tư mới nhà máy bột, nhà máy giấy công suất lớn, dự định xây dựng cả nhà máy lọc dầu.

Nếu xét về tiềm lực, nhiều công ty giấy thừa khả năng tham gia thị trường chứng khoán, nhưng chỉ có mỗi Hapaco dám làm. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giấy cũng đã đến Việt Nam, nhưng hết đoàn này rồi đoàn khác, đến rồi lại đi. Một số đề xuất nghiêm túc không được chấp nhận, cuối cùng tất cả đều đổ xô vào Trung Quốc.

Qua một thời gian dài sống trong môi trường kinh tế kế hoạch tập trung đã làm tầm nhìn của doanh nghiệp bị hạn hẹp, ý thức ngành nghề kém. Dự thảo luật Hiệp hội đã qua 9 lần sử đổi mà không thoát khỏi tư duy xin cho. Nhiều doanh nghiệp vẫn có quan niệm, Hiệp hội tốt là những Hiệp hội có những cái "cho", để hội viên "xin" ,tư duy như vậy nên Hiệp hội ngành nghề còn ở mức sơ khai. Các doanh nghiệp trong Ngành Giấy cũng vậy, vẫn mạnh ai nấy làm. Hiện tượng trong một gia đình có 3 dây chuyền sản xuất giấy giống nhau thì không những không liên kết mà dây chuyền của bố còn bị con trai và con dâu chèn ép vẫn đang tồn tại.

Điều gì sẽ sảy ra khi hội nhập?

Khi Việt Nam gia nhập WTO,  những rào cản về thương mại sẽ bị xóa bỏ, sản phẩm giấy của các nước có sức cạnh tranh cao sẽ được đưa vào Việt Nam. Bên cạnh đó,  môi trường đầu tư thông thoáng và cởi mở hơn, sẽ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào sản xuất giấy. Những  sản phẩm giấy có chất lượng cao, giá cả phù hợp sẽ có cơ hội phát triển,  một số nhà máy giấy 100% vốn nước ngoài với quy mô trung bình 100.000 tấn/năm cũng sắp đi vào hoạt động...

Điều này  sẽ tạo ra  khó khăn cho các cơ sở sản xuất giấy của Việt Nam. Nhất là với những cơ sở nhỏ, sản xuất manh mún, công nghệ lạc hậu và đặc biệt là các cơ sở sản xuất giấy bao bì sẽ không thể tồn tại được bởi chất lượng không đáp ứng được nhu cầu.

Theo ông Bảo, trước thực tế này, nếu các doanh nghiệp không đổi mới tư duy, tìm chỗ đứng trên thị trường, hoàn thiện công nghệ, quản lý, đào tạo và hiệp lực cùng nhau để phát triển... chắc chắn sẽ nhận phần thất bại.


VnVista I-Shine
© http://vnvista.com