Bản in của bài viết
---> Cúnnhỏđángyêu - Blog's <---
Cau chuyen hay -> hot
Đừng bỏ gốc rễ, đừng bắt người khác phải bỏ gốc rễ
Bị chú: Các
bạn trẻ đang đau khổ vì tình yêu dị giáo, các bậc cha mẹ đang có khó
khăn khi con khi đang yêu một người khác đạo, xin hãy đọc bài này.
Sáng
ngày 30/04/2007 lúc 9 giờ, thiền sư Nhất Hạnh cùng phái đoàn tăng thân
quốc tế Làng Mai đã đến viếng thăm nhà thờ Phát Diệm. Thiền sư và tăng
thân đã được các linh mục, các nữ tu và các giáo dân tiếp đón rất
trọng thể. Trong số các linh mục có mặt, có linh mục Phạm Ngọc Khuê,
đại diện cho tòa giám mục Phát Diệm. Các nữ tu đã hát những bài hát
chào mừng chúc tụng và một ban hợp ca gồm có khoảng 30 thanh niên và
thiếu nữ cũng đã hiến tặng nhiều bài thánh ca rất linh động. Trong lời
chào mừng linh mục Phạm Ngọc Khuê đã nói rằng đây là một cuộc viếng
thăm lịch sử của một phái đoàn Phật giáo quốc tế như thế tại nhà thờ
Phát Diệm và thỉnh mời thiền sư Nhất Hạnh phát biểu đôi lời về vấn đề
giao lưu giữa Phật giáo và Cơ Đốc giáo. Đây là những phát biểu của
thiền sư Nhất Hạnh và đáp từ của Linh Mục Phạm Ngọc Khuê.
Sư Ông Làng Mai:
Kính
thưa các bạn, tôi đã từng có dịp đọc Phúc Âm với con mắt của một thiền
sư. Chúng tôi đã từng có giao lưu với các linh mục và các vị mục sư.
Chúng tôi đã từng sinh hoạt chung, những sinh hoạt này không phải chỉ
là trao đổi ý kiến và kinh nghiệm mà còn là sống chung và tu tập chung.
Chúng tôi xin phát biểu trên cơ bản đó. Chúng tôi cũng đã tham dự nhiều
buổi họp, nhiều hội nghị đối thoại giữa đạo Phật, đạo Ki Tô và những
đạo khác. Tôi nhớ ngày xưa có một thiền sư Việt Nam đã đọc kinh Dịch và
đã trình bày kinh Dịch theo cái nhìn của một thiền sư. Ngày xưa tôi đã
hứa với một số các bạn trẻ là sẽ trình bày Phúc Âm qua cái nhìn của
thiền quán và may mắn là tôi đã làm được việc đó. Trong thời gian 40
năm ở nước ngoài chúng tôi đã từng ngồi thiền với các vị linh mục và
các vị mục sư. Chúng tôi đã cùng hoạt động cho hòa bình, và trong khi
hoạt động cho hòa bình chúng tôi có cơ hội chia sẻ với nhau những tuệ
giác của chúng tôi về truyền thống mình. Trong quá trình giao lưu, tôi
có viết được những tác phẩm có tính cách đối thoại giữa những người
theo Phật giáo và những người theo Ki Tô giáo. Cuốn sách đầu tiên mà
chúng tôi xuất bản về đề tài này là “Living Buddha, Living Christ”. Bản
Hoa Ngữ mang tên là “Sinh Sinh Ki Tô, Thế Thế Phật” dịch ra tiếng Việt
là: “Bụt Ngàn Đời, Chúa Ngàn Đời”, nghĩa là “Bụt Bất Tử, Chúa Bất Tử.”
Cuốn sách đó là kết quả của một khóa tu mà chúng tôi tổ chức tại Đức,
trong đó có 50% là Phật tử và 50% là tín hữu Ki Tô giáo. Chúng tôi đã
gom lại những bài thuyết giảng và làm thành cuốn sách Living Buddha, Living Christ.
Cuốn sách này đã đi rất xa, đã đi vào các tu viện kín và chúng tôi cũng
đã nhận được rất nhiều thư các Cha và các Xơ từ các tu viện kín. Cuốn
sách đó giúp cho người Phật Tử hiểu thêm đạo Ki Tô và giúp người Ki Tô
hiểu thêm về đạo Phật. Công đức của sách này rất lớn. Ban đầu người ta
đọc chỉ vì tò mò thôi, nhưng nhờ sự tò mò đó mà có cơ hội hiểu được một
nền đạo đức mà lâu nay mình chỉ có một ý niệm mơ hồ. Sau cuốn Living Buddha, Living Christ thì chúng tôi có cuốn Going Home, Buddha and Jesus as Brother.
(Chúng ta hãy về nhà đi thôi, Bụt và Chúa là hai anh em). Sách này cũng
được đón nhận một cách rất nồng nhiệt ở trong giới độc giả Tây Phương,
Phật Tử cũng như Cơ Đốc giáo. Ở Mai Thôn Đạo Tràng tại Pháp, mỗi năm
đến ngày giáng sinh, chúng tôi luôn luôn tổ chức lễ Giáng Sinh rất long
trọng, tại vì đa số các thiền sinh đều có nguồn gốc Ki Tô giáo. Ngày
giáng sinh rất nhiều thiền sinh Tây phương về Đạo Tràng Mai Thôn như
con cháu về nhà tổ phụ. Vì vậy vào đêm Giáng Sinh tôi luôn luôn giảng
một bài về Phật và về Chúa. Tôi nhớ có một linh mục tên là Thomas Kwan
người Hồng Kông đã nghe được nghe một bài như vậy và vị linh mục này
thấy rất tiếc, vì hôm đó chỉ có 600 người được nghe. Linh mục nói: “Tất
cả các tín hữu Cơ Đốc giáo trên thế giới phải được nghe bài này. Để có
thể thấy rõ Chúa và con đường của mình hơn”. Tôi đã sưu tập được 10 bài
giảng Giáng Sinh như thế, làm được cuốn sách thứ hai gọi là Chúng ta hãy về nhà đi thôi, Bụt và Chúa là hai anh em.
Rất tiếc là hai cuốn nói trên chưa được dịch ra tiếng Việt . Những
người đến với chúng tôi trong các khóa tu tại Mỹ Châu và Âu Châu, đại
đa số là những người tín đồ Công giáo, Tin Lành và Do Thái giáo. Chúng
tôi khuyên họ không nên bỏ đạo gốc của mình. Chúng tôi biết do kinh
nghiệm khi một con người mất gốc thì người đó không bao giờ có hạnh
phúc thật sự được. Vì vậy khi họ tới thực tập theo pháp môn của đạo
Phật chúng tôi yêu cầu họ đừng bỏ gốc rễ của họ và khuyên họ sau khi
tu tập thành công rồi, khi đã chuyển hóa được những bức xúc, khó khăn
và giận hờn rồi thì hãy về với truyền thống của mình và hãy giúp truyền
thống mình làm mới lại. Thanh niên bây giờ thấy được là giáo đường, nhà
thờ chưa cung cấp được những giáo lý và những thực tập có thể đáp ứng
được những khổ đau, những bức xúc của họ. Vì vậy không chỉ đạo Phật
phải làm mới mà đạo Ki Tô cũng phải làm mới thì mới đáp ứng được những
nhu yếu của người trẻ hôm nay. Giới trẻ hôm nay bỏ nhà thờ mà đi rất
đông. Điều tôi nói cũng rất trung thực với giáo lý của Phật tại vì Phật
giáo luôn luôn có thái độ rất cởi mở, phá chấp. Mình không nên bám víu
một giáo điều cho đó là chân lý tuyệt đối và để rồi xem các giáo lý
khác là tà đạo. Vì vậy thái độ của người Phật Tử là giang tay ra ôm lấy
tất cả mọi người. Tình yêu trong đạo Phật là “Từ Bi Hỷ Xả.” Xả có nghĩa
là inclusiveness, không loại trừ bất cứ người nào ra khỏi tình thương
của mình, dù người đó không phải là đồng bào của mình, không phải theo
tôn giáo của mình. Tiếng pháp dịch là équanimité. Tôi quyết hành động
theo tinh thần này tại vì hồi xưa các giáo sĩ tới Việt Nam truyền đạo
đã bắt người Việt mình phải bỏ đi tôn giáo gốc của mình và điều đó đã
gây đau khổ kkhông ít. Những người có gốc gác Cơ đốc giáo tới tu tập
với chúng tôi rất hạnh phúc vì họ có cảm tưởng là họ được công nhận
100%, họ không cần phải từ bỏ niềm tin của họ, gốc gác văn hóa của họ.
Sau một thời gian thực tập, họ có thể thấy, khám phá ra được những châu
báu trong truyền thống của họ mà trước đây họ chưa thấy. Nhờ tiếp xúc
với đạo Phật mà họ trở về và khám phá ra những châu báu trong các gia
sản tâm linh ở Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo. Điều đó làm chúng tôi rất
vui mừng. Chúng tôi thường hay nói với các bạn Cơ Đốc giáo là cõi Tịnh
Độ hay cõi Niết Bàn có mặt ngay trong giây phút hiện tại. Nếu chúng ta
có trái tim tinh khiết, trái tim có năng lượng của niệm, định và tuệ,
nếu chúng ta có mặt đích thực trong giây phút hiện tại thì chúng ta có
thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm của thế giới Cực Lạc, của Tịnh Độ
có mặt ngay trong giây phút hiện tại. Chúng ta không cần phải chết đi
mới sinh về Tịnh Độ, mà có thể đi vào trong Tịnh Độ bằng mỗi bước chân,
ngay bây giờ và ở đây. Giáo lý ấy được thực tập tại Mai Thôn Đạo Tràng,
và chúng tôi cũng đã chia sẻ cho các bạn Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo.
Chúng tôi nói rằng các bạn không cần phải chết đi mới đi về nước Chúa.
Nếu các bạn có tình thương, có ý thức sáng tỏ, có tâm rộng mở thì mỗi
hơi thở và mỗi bước chân có thể đưa các bạn vào nước Chúa trong giây
phút hiện tại. Thiên Quốc có mặt trong giây phút hiện tại. Trong đạo
Phật các vị tổ có nói rằng Tịnh độ và Phật nằm trong trái tim của mình.
Phúc Âm cũng nói như thế, Thiên Quốc nằm trong trái tim của mình và vì
vậy mình đi tìm thiên quốc hay tịnh độ nơi khác và thời khác thì có thể
sai.
Khoa học lượng tử bây giờ bắt đầu dùng danh từ phi cục bộ,
tiếng Anh là “non-local”. Cái thực tại lượng tử là phi cục bộ, chúng ta
không thể nào xác định vị trí của một lượng tử trong thời gian hoặc
không gian. Bản chất của lượng tử là phi cục bộ. Chúng tôi nghĩ rằng
ngôn ngữ ấy chúng ta có thể áp dụng cho Phật độ và cho Thiên Quốc.
Thượng Đế, hay Thiên quốc là những thực tại phi cục bộ, chúng ta không
thể xác định vị trí của nó trong không gian và thời gian, tại vì nó nằm
trong trái tim của mình. Khi trái tim của mình đã sẵn sàng rồi thì là
mình đang ở trong Thiên quốc, đang ở với Thượng Đế, không cần phải
trông chờ điều đó trong tương lai. Chúng ta tu như thế nào, thực tập
như thế nào để Thiên quốc có mặt trong giây phút hiện tại. Chúng ta tu
như thế nào, thực tập thế nào để tịnh độ có mặt trong giây phút hiện
tại. Và hạnh phúc không cần chờ đến tương lai. Hiện pháp lạc trú là một
giáo lý Phật giáo. Nhà văn André Gide có nói một câu làm tôi rất thích.
Ông nói Thượng Đế tức là hạnh phúc ( Dieu est bonheur ). Và ông nói
thêm một câu nữa: “Thượng Đế có mặt cho chúng ta 24 giờ một ngày ...”.
Những câu nói đó rất phù hợp với giáo lý đạo Phật. Nếu chúng ta đi sâu
vào Phúc Âm, chúng ta cũng thấy chân lý đó, nghĩa là nếu chúng ta đem
tâm trở về với thân mà nhận diện được tất cả những cái mầu nhiệm đang
có mặt trong ta và xung quanh ta thì lúc đó ta đang ở trong Thiên quốc
và ta đang tiếp xúc sâu sắc với Thượng đế. Nếu nhà thờ và nhà chùa có
thể cung cấp được những giáo lý đó và đưa ra những phương pháp thực tập
để con người có thể sống an lạc và hạnh phúc trong giây phút hiện tại
thì người ta sẽ không cần đi tìm hạnh phúc ở sắc dục, tiền tài và danh
vọng. Trong Phúc âm có câu chuyện một bác nông phu khám phá ra được một
kho tàng chôn giấu ở trong một đám ruộng và sau đó đi về và bán đi
những khu ruộng khác để chỉ mua một đám ruộng đó. Khi chúng ta đã tu và
tiếp xúc được với nước Chúa và Chúa rồi thì chúng ta đâu cần những cái
khác nữa, chúng ta đâu cần danh, không cần lợi, không cần sắc dục,
không cần quyền lực, vì chúng ta đã hạnh phúc chán. Vì vậy cái giáo lý
nào và sự thực tập nào giúp cho ta tiếp xúc được với Thiên chúa trong
giây phút hiện tại thì đó là kho tàng châu báu của chúng ta. Hạnh phúc
ấy chúng ta có thể đạt được trong giây phút hiện tại, không cần phải
chết đi mới có. Nói chuyện với các bạn Do Thái giáo và Ki Tô giáo chúng
tôi cũng chia sẻ cách thực tập, mỗi hơi thở mỗi bước chân của mình có
thể đưa mình vào Thiên quốc mà đừng trông chờ Thiên quốc ở tương lai.
Tôi nhớ có một lần thăm viếng Đại Hàn tôi được tham dự vào một buổi
giao lưu giữa người Kitô giáo và người Phật tử: đó là lần đầu tiên mà
người Phật tử và người Cơ Đốc giáo tới với nhau. Tôi có đưa ra vấn đề
có những thanh niên thiếu nữ khác tôn giáo yêu nhau. Bên này bắt bên
kia phải bỏ đạo, phải chọn lựa. Đó là một vấn đề còn tồn tại ở nhiều
nước và ngay trong nước Việt Nam chúng ta. Và biết bao nhiêu cặp thanh
niên thiếu nữ đã đau khổ tại vì thế. Tôi nghĩ rằng một người có thể rất
hạnh phúc khi có hai gốc rễ, một gốc rễ Cơ đốc giáo và một gốc rễ Phật
Giáo. Hai cái đó không nhất thiết phải loại trừ nhau. Tại vì mình hẹp
hòi cho nên mình mới thấy hai cái khác nhau chống đối nhau. Nhưng nếu
mình vượt lên, thấy được hai truyền thống có thể bổ túc cho nhau thì
mình sẻ có một thái độ cởi mở hơn. Trong số các đệ tử của tôi có rất
nhiều các thầy các sư cô có gốc Cơ đốc giáo và Do Thái Giáo, nhưng họ
hạnh phúc vô cùng khi được tu tập và ôm ấp luôn cả hai truyền thống.
Ngay trong phái đoàn của chúng tôi có mặt hôm nay có một vị đại đức
ngày xưa đã từng làm linh mục. Vị linh mục đó tới với đạo Phật và khám
phá ra những phương pháp thực tập rất thiết thực có thể thực hiện được
lý tưởng của Cơ đốc giáo. Chúng ta thấy có hai gốc rễ đôi khi lại hay
hơn có một gốc rễ và vì vậy ngay trong đại hội đó tôi đã đề nghị khi
hai thanh niên yêu nhau, một người thuộc về Cơ đốc giáo, một người
thuộc về Phật Giáo thì cả hai gia đình nên cho họ cưới nhau với điều
kiện hai bên công nhận truyền thống của người bên kia và nếu người con
trai là Cơ Đốc Giáo và người con gái là Phật Giáo thì người con gái
phải học thêm Cơ Đốc Giáo và người con trai phải học thêm Phật Giáo. Và
đến ngày chủ nhật thì hai người cùng đi nhà thờ, đến ngày mồng một và
ngày rằm thì hai người cùng đi Chùa. Và điều đó là điều chúng tôi đã
thực hiện được ở Tây Phương. Tại sao chúng ta phải để cho các bạn trẻ
tiếp tục đau khổ năm này qua năm khác ?. Và đó là tinh thần cởi mở mà
chúng tôi đã thấy được rõ ràng khi đọc kinh Phật và kinh Thánh. Hôm nay
tôi xin nói ra vài cái thấy của tôi cũng như một món quà hiến tặng qúy
vị có mặt ở đây.
Sư cô Chân Không hỏi:
Như
Sư ông đề nghị tức là khi một người Công giáo và một người Phật giáo
thương yêu nhau thì người Phật tử nên học hỏi những gì tinh ba nơi Công
giáo và gia đình phải đi nhà thờ vào những ngày Chủ nhật và đi chùa vào
mồng một và ngày rằm. Con xin hỏi là quý vị linh mục có chấp nhận được
như vậy không? hay là người Phật tử chỉ phải theo đạo của người chồng,
phải làm lễ rửa tội và phải từ bỏ đạo Phật? Con xin hướng câu hỏi này
về cho các vị Tôn đức bên phía Công Giáo.
Cha Phạm Ngọc Khuê trả lời:
Đây là một câu hỏi có thể nói là thật sự rất tế nhị và rất thời sự.
Trước hết tôi xin được nêu lên nguyên tắc về giáo luật và kinh thánh.
Thiên chúa không bao giờ ngăn cản con người tự nguyện nhất là trong
việc hôn nhân gia đình thì không có bao giờ ngăn cản hai người thương
yêu nhau. Giáo hội không bao giờ chặn ngăn hai người nam nữ yêu thương
và tiến tới hôn nhân với nhau, điều đó là chắc chắn thuộc về giáo luật,
không ai có quyền ngăn cản tình yêu của họ, vì đó là tuyệt đối. Nhưng
tại sao lại xảy ra cái vấn đề giữa nam nữ tín đồ các tôn giáo khác nhau
lại có những vấn đề mà người ta chưa đi đến chỗ kết hôn với nhau thì do
đâu? Trong
thực hành việc phục phụ hôn phối, đối với anh em trong Công giáo chúng
tôi, đối với danh Chúa, đối với người tín đồ Công giáo cũng như giáo
hội thì chúng tôi không bao giờ đặt vấn đề là phải trở thành người Công
Giáo thì mới có thể cưới (nhau )về phía công giáo của mình (trở thành
vợ chồng). Không bao giờ có vấn đề đó, chúng tôi luôn luôn tôn
trọng tình yêu của họ. Và tôi nói với người nam hoặc người nữ là tình
yêu của các anh chị là tình yêu tuyệt đối và chúng tôi tôn trọng. Tuy
nhiên khi hai người quyết định yêu thương nhau thì đức tin của người
tín đồ Ki Tô Giáo cũng như Phật giáo phải được tôn trọng bởi sự tự do
của họ. Cũng như Thầy Thích Nhất Hạnh đã nói là họ phải sống cội rễ của
họ họ mới thấy hạnh phúc. Và cái việc họ được chịu phép rửa tội là hoàn
toàn tự do. Cho nên giáo hội chỉ nói một điều này. Khi tiến tới hôn
nhân thì hai người phải hứa là tôn trọng quyền lợi của nhau và niềm
tin của mỗi người, và không được vi phạm. Vì vậy về phía tín đồ tôn
giáo khác phải cam đoan, có thể nói là tuyên thệ tôn trọng niềm tin vì
đó là lãnh vực thiêng liêng và tự do tôn giáo, không ai được can thiệp.
Tôn trọng niềm tin của tín đồ thiên chúa giáo, không được ngăn cản. Nếu
họ giữ được như thế thì cuộc hôn phối đó được tốt đẹp và thành sự trước
mặt Chúa và trước luật pháp . Luật thì như vậy, nhưng trong thực tế thì
không luôn luôn được xảy ra như vậy. Hoàn cảnh của Việt Nam thì khác
nữa, nghĩa là trong hoàn cảnh rơi rớt của chế độ phong kiến vẫn còn
nhiều cho nên quý vị biết rõ là ở Việt Nam người nam có quyền hơn người
phụ nữ. Mặc dù họ hứa như vậy, nhưng khi về nhà mà hai vợ chồng không
có hòa thuận với nhau cơm không lành, canh không ngọt. Khi họ sống
chung với nhau và nếu như có chiến tranh trong gia đình thì họ đổ lổi
trên đầu người tín đồ của mình hoặc Ki Tô Giáo hoặc người Phật Giáo tôi
không nói là về phía này hay phía kia. Nếu người chồng có quyền thì sẽ
buộc người vợ không theo tín đồ của mình, theo tôn giáo của mình nữa.
Và có thể có khó khăn trong gia đình. Chính vì vậy Giáo hội đặt ra điều
kiện này, nếu một người tín đồ tôn giáo khác, lấy người Công giáo, rồi
sau đó Phật tử, hay là người thờ ông bà không giữ lời tuyên thệ trung
thành thì người tín hữu Công giáo có thể trình lên thẩm quyền nguồn
Thánh có thể tháo cái hôn phối mà người ta đã cam kết chỉ vì nếu mà đe
dọa đến cái niềm tin tự do của mình giáo hội phải bảo vệ con cái của
mình. Quý vị phải hiểu là đây không phải là bắt buộc phải làm. Các gia
đình đó là truyền thống của gia đình, hoàn cảnh của gia đình muốn con
cái của mình giòng sớ, cũng như quý cô, quý ông bà cũng như quý vị muốn
cho gia đình mình cùng một chiều cho dễ để việc đó cho dễ hơn. Về phía
giáo hội thì không có đứng ngăn cản sự việc hôn nhân của họ. Xin quý vị
hiểu rõ thì về luật giáo thì không ép buộc mà buộc một trong hai người
phải tôn trọng tôn giáo của nhau. Phải dành ưu tiên nhất cho người bạn
đời theo tôn giáo đó để thực hành niềm tin tôn giáo và không có ngăn
cản giữ đức tin riêng của họ.
Một cha hỏi :
Người
thương gia trong kinh thánh tìm thấy viên ngọc quý và về bán tất cả gia
tài để mua lấy viên ngọc quý đó, đây là một trang tin mừng rất hay của
kinh thánh Tân ước, vậy xin hỏi giáo sư viên ngọc vùi trong thửa ruộng
này dưới mắt Phật giáo là gì và đối với Công giáo diễn tả điều gì? Xin
giáo sư vui lòng cho biết.
Sư Ông Làng Mai:
Trước
hết tôi xin đề nghị thêm cho hai bên giáo hội Công giáo và Phật giáo
phải có những văn bản rõ rệt về vấn đề hôn nhân dị giáo này. Nếu tôi là
pháp chủ Phật giáo Việt Nam thì tôi sẽ cho phép những người con trai
hay con gái Phật giáo lấy những người con trai hay con gái Công giáo và
hai người được học truyền thống của nhau, hai người cùng đi nhà thờ
một lần, hai người cùng đi chùa một lần, hai người cùng được rửa tội
một lần và hai người đều được quy y. Cha Thomas Kwan một linh mục
người Hồng Kông đã quy y ở Làng Mai nói sau khi quy y và thọ năm giới
thì cha hiểu giá trị truyền thống của Cha nhiều hơn. Cha đã đem năm
giới đó về dạy cho giáo dân của cha. Và đã giúp được rất nhiều người và
thấy rõ là hai bên bổ túc cho nhau, không chống đối nhau. Vì vậy khi
một cặp thanh niên khác đạo muốn cưới nhau thì nên nói cho họ biết là
cả hai người nên cùng được rửa tội và cùng được quy y. Hai cái đó không
chống đối nhau. Nếu chúng ta cần 100 năm để các giáo hội đi tới sự thỏa
thuận về văn bản đó thì cũng đáng tại vì các cặp thanh niên nam nữ đã
khổ hơn 400 năm nay rồi, nếu cần 100 năm nữa để tới văn kiện đó cũng
đáng để chúng ta chờ đợi. Nhưng trong cái thời đại toàn cầu hóa này,
biết đâu, có thể vài ba tháng các giáo hội đã có thể ra một văn kiện
như thế để làm các thanh niên bớt khổ.
Cái kho tàng chôn giấu trong đám ruộng đó, tức là Thiên chúa, tức là
Thiên quốc, mà trong Phật giáo gọi là Niết bàn, là Cực lạc, là Phật độ.
Mỗi người có thể gọi cái kho tàng đó bằng một cái tên khác, nhưng mà nó
cùng là một thực tại. Trong đạo Phật có giáo lý về Niết bàn như thực
tại không sinh, không diệt, không tới, không đi, không còn, không mất,
đó là nền tảng của tất cả các hiện tượng của vũ trụ. Nếu không có cái
đó thì tất cả các hiện tượng không có chỗ nào để trở về. Cái đó mình có
thể gọi tương đương với Thiên chúa của Cơ đốc giáo. Tại vì Thiên chúa
phải là bất sinh bất diệt, phi hữu phi vô, vô khứ vô lai. Ngôn ngữ của
loài người của chúng ta không thể nào diễn tả được Thiên chúa. Nếu anh
nói anh có thể diễn tả được Thiên chúa là gì, tức là anh còn nông cạn.
Niết bàn là một thực thể cần phải chứng nghiệm. Nếu anh dùng những ý
niệm, những ngôn từ để diển tả Niết Bàn thì anh sẽ không bao giờ có thể
diễn tả được. Dùng những phương tiện hữu hạn mà diễn tả cái vô hạn, đó
là việc không thể nào làm được. Niết Bàn hay Thượng đế cũng thế. Niết
bàn, bản thể, chân như là thực tại không sinh không diệt; cái đó chính
là Thiên chúa của Cơ đốc giáo. Cũng như cái mà người Việt chúng ta gọi
là chuối thì người Pháp gọi là banane. Chuối và banane là hai danh từ
để chỉ cho một loại trái cây. Chúng ta có thể gọi cái tuyệt đối bằng
nhiều tên, nhưng thực tại không sinh không diệt là nền tảng của tất cả
các hiện hữu. Ta có thể gọi đó là chân như, là pháp thân là niết bàn
hay là Thượng đế. Chúng ta đừng mất thì giờ vì những tên từ, chúng ta
nên tiếp xúc trực tiếp với thực tại.
Nguồn từ: langmai
VnVista I-Shine
© http://vnvista.com