Đây không còn là câu chuyện nhập khẩu đơn thuần, như chuyện cần hay chưa cần nhập ôtô trên cơ sở cân nhắc ta đã có xăng và đường nhựa chưa. Đây là câu chuyện kỹ thuật, và chuyện xây dựng một hệ thống âm nhạc phổ thông đầy đủ, đa sắc.
Như tác giả Nhật Thư đã đề nghị trong bài “Chưa, nhưng sẽ có”, việc hình thành đầy đủ những phong cách âm nhạc – hay nói chính xác hơn, những phong cách kỹ thuật âm nhạc – cho một quốc gia đang phát triển là điều cấp thiết. Không thể giữ khư khư một vài style nhạc cũ kỹ với niềm tin rằng, mình chỉ nên có thế thôi, đây mới là những thứ tiêu hóa được, còn thì đều ngoại lai, sống sít, phải tránh xa.
Việc du nhập các hình thái âm nhạc mới chắc chắn là một vấn đề lớn, và đấy là nhiệm vụ của các nhạc sĩ. Nền âm nhạc Việt mãi mãi là nền âm nhạc của các nhạc sĩ, đặt nền tảng bằng hoạt động sáng tác; nó có phần dị biệt với nền pop music Tây phương, nơi hoạt động biểu diễn và việc xây dựng hình tượng nghệ sĩ quan trọng hơn, mãnh liệt hơn và có hiệu quả hơn. Nhạc sĩ Việt cần kiên định trong ý nghĩ, chính mình mới là kẻ cầm nắm tương lai nhạc Việt, chính mình phải là người “Tây học” toàn tòng và chịu trách nhiệm du nhập, tiêu hóa, hòa tan các chất liệu Tây để sáng tạo ra cái riêng cho nhạc Việt. Sáng tạo ra hip-hop Việt, chẳng hạn thế.
Không nhất thiết mọi bắt chước đều dẫn đến sáng tạo, như tác giả Thiên Lang viết (“...cũng có thể mãi mãi chỉ là bắt chước mà chẳng hề dẫn đến sáng tạo”), nhưng không có sáng tạo nào tự sinh ra từ số không, từ “nước lã” và tránh tuyệt đối công đoạn bắt chước. Những câu hát đầu tiên của con người là hệ quả của việc bắt chước tiếng thiên nhiên (chim hót, suối reo), kèn saxophone được khai sinh trên ý niệm bắt chước giọng người, các sound samples bắt chước nhạc cụ thật và bắt chước tiếng nói trong mơ, a cappella phát triển trên cơ sở bắt chước bản phối khí cho nhạc cụ, .v.v. Hiểu như thế, có lẽ các nhạc sĩ Việt sẽ tránh khỏi cơn mộng mị êm ái là ta có thể đóng cửa kéo rèm kín mít mà vẫn sáng tác được mọi thứ trên trời dưới đất, vẫn chơi thành thạo các nhạc cụ cổ điển và vẫn hip được như một gã đen Harlem.
Việc tập nhiễm văn hóa để tiến tới một nền văn hóa toàn cầu bao giờ cũng là cần thiết, nếu không muốn nói là bức thiết. Tập nhiễm văn hóa lại phải đặt nền móng từ học tập kỹ thuật. Tinh thông kỹ thuật trước khi tính chuyện hòa những thứ ngoại lai vào bản sắc dân tộc, như người Nhật làm, là cách nghĩ tiến bộ. Không khí văn hóa Việt là một không khí đặc trưng, khó trộn lẫn, do vậy, mất bản sắc không phải là mối quan ngại lớn. Nghĩ gì, làm gì cũng phải giỏi kỹ thuật trước.
Nhìn lại jazz Việt, đường đi của Nguyên Lê rõ ràng không chệch ra ngoài nguyên lý “tiếp thu kỹ thuật – tiêu hóa kỹ thuật – biến hóa kỹ thuật” khi anh từng là một nhạc thủ guitar chơi jazz Tây ở đẳng cấp cao trước khi làm các dự án jazz Việt, jazz Bắc Phi. Trần Mạnh Tuấn cũng phải lao phổi với standard jazz trước khi thổi dân ca Mèo đệm piano. Chưa hẳn những dự án “biến hóa” của Tuấn hay Nguyên đã đạt được tầm vóc lớn hay trở thành khuôn vàng thước ngọc cho tiến trình phát triển của V-jazz, nhưng dù sao cũng còn hơn là văn dốt vũ dát, tiếng Tây thì không biết mà tiếng Việt thì quên!
Nhìn về khía cạnh “bắt chước để sáng tạo”, chỉ có một điều cần lưu tâm, là thói quen của chúng ta có vẻ như thích “mượn tạm, xài đỡ” như Thiên Lang đề cập. Bất chấp sự khác nhau về nhân trắc (hình dáng xương hàm và cấu trúc răng), nhiều tay kèn Việt vẫn thích ngửa cổ thổi saxo như dân da đen. Bất chấp sự khác biệt về chiều cao hình thể, những tay hip Việt cao một mét rưỡi vẫn ưa diện quần thụng như Nelly mét tám. Dễ dàng nhận ra nhược điểm của chúng ta ngay trong quá trình học kỹ thuật: độ dài ngắn của hơi thở, tần số rung lưỡi, chiều cao, sức khỏe, phản ứng trước tiếng ồn, để mà nếu có hip, thì hip theo một kiểu cách phù hợp nhất.
Và một gợi ý nhỏ nữa, rằng liệu ta có thể đón đầu công nghệ thay vì nhất nhất theo sau nó không? Liệu có một phương cách hip hóa (hay jazz hóa, rock hóa) âm nhạc Việt theo chiều hướng lạ thường, khó đoán ngay cả với các nhà âm nhạc học tài danh? Hơi mơ hồ, nhưng không thể bảo là bất khả.
Còn nếu tự kỷ ám thị “chầu văn, xẩm chợ, vọng cổ” sẽ làm loãng đi văn hóa đen, thì mộng ước hòa nhập vào âm nhạc chhành tinh sẽ trở nên vô vọng. Sẽ ẳng bao giờ có jazz Việt, rock Việt, hip Việt, country Việt, new age Việt được đâu.
Đây không còn là câu chuyện nhập khẩu đơn thuần, như chuyện cần hay chưa cần nhập ôtô trên cơ sở cân nhắc ta đã có xăng và đường nhựa chưa. Đây là câu chuyện kỹ thuật, và chuyện xây dựng một hệ thống âm nhạc phổ thông đầy đủ, đa sắc.
Như tác giả Nhật Thư đã đề nghị trong bài “Chưa, nhưng sẽ có”, việc hình thành đầy đủ những phong cách âm nhạc – hay nói chính xác hơn, những phong cách kỹ thuật âm nhạc – cho một quốc gia đang phát triển là điều cấp thiết. Không thể giữ khư khư một vài style nhạc cũ kỹ với niềm tin rằng, mình chỉ nên có thế thôi, đây mới là những thứ tiêu hóa được, còn thì đều ngoại lai, sống sít, phải tránh xa.
Việc du nhập các hình thái âm nhạc mới chắc chắn là một vấn đề lớn, và đấy là nhiệm vụ của các nhạc sĩ. Nền âm nhạc Việt mãi mãi là nền âm nhạc của các nhạc sĩ, đặt nền tảng bằng hoạt động sáng tác; nó có phần dị biệt với nền pop music Tây phương, nơi hoạt động biểu diễn và việc xây dựng hình tượng nghệ sĩ quan trọng hơn, mãnh liệt hơn và có hiệu quả hơn. Nhạc sĩ Việt cần kiên định trong ý nghĩ, chính mình mới là kẻ cầm nắm tương lai nhạc Việt, chính mình phải là người “Tây học” toàn tòng và chịu trách nhiệm du nhập, tiêu hóa, hòa tan các chất liệu Tây để sáng tạo ra cái riêng cho nhạc Việt. Sáng tạo ra hip-hop Việt, chẳng hạn thế.
Không nhất thiết mọi bắt chước đều dẫn đến sáng tạo, như tác giả Thiên Lang viết (“...cũng có thể mãi mãi chỉ là bắt chước mà chẳng hề dẫn đến sáng tạo”), nhưng không có sáng tạo nào tự sinh ra từ số không, từ “nước lã” và tránh tuyệt đối công đoạn bắt chước. Những câu hát đầu tiên của con người là hệ quả của việc bắt chước tiếng thiên nhiên (chim hót, suối reo), kèn saxophone được khai sinh trên ý niệm bắt chước giọng người, các sound samples bắt chước nhạc cụ thật và bắt chước tiếng nói trong mơ, a cappella phát triển trên cơ sở bắt chước bản phối khí cho nhạc cụ, .v.v. Hiểu như thế, có lẽ các nhạc sĩ Việt sẽ tránh khỏi cơn mộng mị êm ái là ta có thể đóng cửa kéo rèm kín mít mà vẫn sáng tác được mọi thứ trên trời dưới đất, vẫn chơi thành thạo các nhạc cụ cổ điển và vẫn hip được như một gã đen Harlem.
Việc tập nhiễm văn hóa để tiến tới một nền văn hóa toàn cầu bao giờ cũng là cần thiết, nếu không muốn nói là bức thiết. Tập nhiễm văn hóa lại phải đặt nền móng từ học tập kỹ thuật. Tinh thông kỹ thuật trước khi tính chuyện hòa những thứ ngoại lai vào bản sắc dân tộc, như người Nhật làm, là cách nghĩ tiến bộ. Không khí văn hóa Việt là một không khí đặc trưng, khó trộn lẫn, do vậy, mất bản sắc không phải là mối quan ngại lớn. Nghĩ gì, làm gì cũng phải giỏi kỹ thuật trước.
Nhìn lại jazz Việt, đường đi của Nguyên Lê rõ ràng không chệch ra ngoài nguyên lý “tiếp thu kỹ thuật – tiêu hóa kỹ thuật – biến hóa kỹ thuật” khi anh từng là một nhạc thủ guitar chơi jazz Tây ở đẳng cấp cao trước khi làm các dự án jazz Việt, jazz Bắc Phi. Trần Mạnh Tuấn cũng phải lao phổi với standard jazz trước khi thổi dân ca Mèo đệm piano. Chưa hẳn những dự án “biến hóa” của Tuấn hay Nguyên đã đạt được tầm vóc lớn hay trở thành khuôn vàng thước ngọc cho tiến trình phát triển của V-jazz, nhưng dù sao cũng còn hơn là văn dốt vũ dát, tiếng Tây thì không biết mà tiếng Việt thì quên!
Nhìn về khía cạnh “bắt chước để sáng tạo”, chỉ có một điều cần lưu tâm, là thói quen của chúng ta có vẻ như thích “mượn tạm, xài đỡ” như Thiên Lang đề cập. Bất chấp sự khác nhau về nhân trắc (hình dáng xương hàm và cấu trúc răng), nhiều tay kèn Việt vẫn thích ngửa cổ thổi saxo như dân da đen. Bất chấp sự khác biệt về chiều cao hình thể, những tay hip Việt cao một mét rưỡi vẫn ưa diện quần thụng như Nelly mét tám. Dễ dàng nhận ra nhược điểm của chúng ta ngay trong quá trình học kỹ thuật: độ dài ngắn của hơi thở, tần số rung lưỡi, chiều cao, sức khỏe, phản ứng trước tiếng ồn, để mà nếu có hip, thì hip theo một kiểu cách phù hợp nhất.
Và một gợi ý nhỏ nữa, rằng liệu ta có thể đón đầu công nghệ thay vì nhất nhất theo sau nó không? Liệu có một phương cách hip hóa (hay jazz hóa, rock hóa) âm nhạc Việt theo chiều hướng lạ thường, khó đoán ngay cả với các nhà âm nhạc học tài danh? Hơi mơ hồ, nhưng không thể bảo là bất khả.
Còn nếu tự kỷ ám thị “chầu văn, xẩm chợ, vọng cổ” sẽ làm loãng đi văn hóa đen, thì mộng ước hòa nhập vào âm nhạc chhành tinh sẽ trở nên vô vọng. Sẽ ẳng bao giờ có jazz Việt, rock Việt, hip Việt, country Việt, new age Việt được đâu.
VnVista I-Shine
© http://vnvista.com