|
hotinhtam
Người Quảng Trị thích ăn ớt ra răng, có lẽ bạn nên về tận nơi để mục sở thị, còn thôi thì chịu khó nghe người Quảng Trị kể trạng vậy.
Có lần tôi đọc trên bolg của Hoàng Công Danh, có nghe kể rằng.
Một hôm đám bạn cùng lớp, trên đường đi chơi tạt vô ghé thăm nhà người bạn. Bà mẹ thấy con có bạn học về chơi, mừng hú lên, liền chạy ù qua hàng xóm mượn mấy bò gạo về nấu cơm, và nói với con rằng, tụi bây về không báo trước, nên bữa ni tau cho ăn cơm với rau lang luộc, với cá mòi kho nước, chỉ có rứa thôi.
Đến bữa, rau lang luộc thì cả rỗ, tha hồ chấm nước mắm cua mà ăn thỏa thích, còn trách cá mòi kho nước, đám học trò khoắng đũa, mò như thợ lặn, vậy mà nỏ thấy con cá mô cả. Đứa con thấy vậy, ngạc nhiên la to lên hỏi mẹ, mạ ơi, rứa chứ cá mòi chộ mô mà nỏ thấy hè. Người mẹ ngồi băm bèo ngoài sân, nói vọng vô nhà, cá trong trách chứ mô, cá mòi đỏ quê miềng đó, ngon không con.
Tất nhiên là ngon, bởi trách cá mòi đó chỉ có cả kí ớt sừng trâu đỏ rực, nấu với muối và mắm ruốc. Và nói thật. Nếu có cá mòi mà nỏ có ớt, bữa cơm trắng không độn ngô khoai, cũng có ra chi mô.
Rồi tôi còn nghe chuyện ni, hay nỏ chịu nổi.
Làng Gia Độ quê tôi có cô nọ thi đậu tiến sĩ, được điều ra thủ đô làm việc ở Viện Toán học. Đứa con gái chưa tới một tuổi, phải đem gởi nhà trẻ quốc tế, mỗi tháng đóng tới mấy triệu, vậy mà mấy cô nuôi dạy, dù bằng cách nào cũng không ép đứa trẻ bú sữa hay ăn bột được cả. Cứ bột hay sữa đút vào, là con bé nó lè ra ngay lập tức. Ngạc nhiên, các cô đem chuyện nói với người mẹ, người mẹ hỏi lại, rứa chứ mấy o có trộn ớt bột vô sữa bột không, không có ớt bột là cháu nó nỏ ăn mô. Quả nhiên sau đó, cứ trộn càng nhiều ớt bột vô sữa bột, là con bé nó ních tì tì, mấy cũng hết.
Hôm ở sài Gòn dự đám giỗ người chú ruột, có người bà con ở làng đến dự, nói với tôi, tau tiện thể đi nuôi bệnh con cháu trong viện Chợ Rẫy, ghé về đây thắp nén hương cho chú mi. Rồi ông kể tôi nghe, hôm kia có người bị xe đâm chết ngoài đường, mà không ai biết danh tánh, nên bệnh viện phải mổ pháp y xem xét. Tau đứng coi, thấy trong bụng toàn ớt sừng trâu, ớt *** chuột, tau la lên, ông ni người Quảng Trị quê tôi chớ mô. Rứa mà đúng đó mi. Hồi sáng ni có người nhà vô tìm nhận mặt. Người làng Gia Độ mình chứ mô. Ăn ớt nhiều cỡ đỏ, thì chỉ có dân Gia Độ mình thôi.
Ấy, cái sự hay ăn ớt, thích ăn ớt, của người Quảng Trị quê tôi thì khỏi phải nói. Tôi về quê, thấy trong vườn, trên gò, ngoài bãi, ở đâu dân quê tôi cũng trồng ớt. Ớt muối dưa, ớt làm tương, ớt làm mắm, ớt phơi khô đâm ra làm ớt bột. Ớt phục từ trong nhà ra ngoài sân, ngoài đường, ngoài ruộng, ngoài gò, ngoài bãi, nhiều vô thiên lũng. Cứ bữa cơm là phải có ớt, không có ớt là không được. Người lớn ăn ớt, trẻ con cũng ăn ớt. Người chết, khi cúng cũng phải có dĩa ớt trên bàn thờ. Ăn cơm, ăn khoai, ăn chi cũng phải có ớt.
Ăn ớt nhiều nên dân quê tôi rất trực tính, nói chi cũng nói thẳng đùi đụi, không có sợ mất lòng ai cả; còn làm lụng việc nhà, việc đồng áng, ai mô cũng siêng, cũng chịu khó. Nhờ ăn ớt nhiều nên mới có được đức tính ấy. Và có lẽ, nhờ ăn ớt nhiều từ nhỏ, nên dân quê tôi học giỏi lắm, tiến sĩ nhiều như ngô trên Bích La, ra đường, đụng đâu cũng gặp tiến sĩ; còn như cử nhân, thì đến ông nông dân ngày hai buổi đi cày cũng có bằng. Ăn thứ ớt cay xé lưỡi thành thần từ đời này qua đời khác, nên dân Quảng Trị, bên cạnh tính kiên nhẫn, tính chịu nghe, chịu học, khi đụng chuyện chi không hài lòng, cũng dễ nổi nóng như Trương Phi, nhưng xong thì thôi, không hề có để bụng bao giờ.
À, mà nhém chút xíu tôi quên. Ăn ớt truyền đời, nên miệng lưỡi dân quê tôi cay như ớt. Không nói thì thôi, đã nói thì ra nói. Nói yêu thì đến cua trong hang cũng phải bò ra khỏi lỗ. Nói ghét thì người bị ghét chỉ có nước bỏ xứ mà đi. Có điều bạn phải nhớ, ăn ớt nhiều như núi, nên dân quê tôi nói trạng thuộc vào hạng nhất nước đấy- đừng có loại trừ tôi nhen, tôi là dân chánh hiệu Triệu Độ, Triệu Phong mà.
Tất cả là nhờ hay ăn ớt, thích ăn ớt, và ăn ớt rất chi là nhiều là nhiều.
Hổng tin, cứ đến Đông Hà, hỏi Xuân Lợi ở quán cà phê Giang Châu thì biết.
Dzu- htt
những người bạn thơ Quảng Trị của tôi
Lần nào về quê, tôi cũng gặp các bạn thơ, quây quần cùng nhau, lấy thơ nhau ra đọc làm quà. Không gian thơ, thường là ban đêm trên triền cát trắng bờ sông Hiếu, hay là lúc chiều tà trên bãi Đồng Soi, hoặc là trên biển Gio Hải lộng gió. Ai đọc cũng đọc say sưa, như thả hồn vào từng câu chữ. Người nghe chỉ yên lặng mà nghe, ít khi bày tỏ sự khen chê, mà chỉ nâng ly chạm với nhau để chúc mừng.
Các bạn thơ quê tôi, mỗi người mỗi hoàn cảnh, nhưng họ rất yêu thương đùm bọc nhau. Tôi nhớ, một thời PVQ có cái vi tính cũ xì, chậm rì chậm rịch, lên mạng trần ai lai khổ, vậy là họ mỗi người một ít, góp lại mua cho anh cái máy cực mạnh.
Dân Quảng Trị miềng mà.
Nhớ về quê hương là nhớ tới bạn bè.
Tôi nhớ đêm chia tay, Xuân Lợi ôm chặt lấy tôi, nhét vào túi áo tôi một cái bao thơ, nói là tặng tôi để tiếp tục rong ruỗi. Còn Thanh Tịnh thì nhét vào ba lô của tôi một chai rượu ngon, nói đem theo uống dọc đường cho vui. Khi xe chạy vào đến Huế, anh lơ xe nói với tôi, bác khỏi trả tiền, anh Thanh Tịnh trả rồi.
Còn tôi, làm sao mà tôi quên được mờ sáng ngày 23 tháng 8 ấy. Đông Hà mưa tầm tả cả đêm, gần đến giờ tôi lên đường, trời vẫn mưa như trút. Khi tôi từ trên lầu xuống phòng khách, đã thấy anh Phan Văn Quang ngồi ở đấy, đầu tóc quần áo ướt rượt. Thì ra anh Quang đi từ lúc hơn 4 giờ sáng, dọc đường xe bị xì hơi, anh phải gõ cửa nhà người bạn, gởi xe ở đấy, đi bộ đến nhà Thanh Tịnh cho kịp. Rồi cả hai đưa tôi ra bến xe, ngồi uống cà phê và ăn sáng với tôi ngay bên vệ đường. Trời vẫn buông mưa mù mịt, cho đến tận lúc xe lăn bánh. Nhìn qua cửa, tôi thấy anh Quang và Tịnh mặc áo mưa đứng giữa bến xe ngập nước, lòng cứ rưng rưng muốn khóc.
Bạn bè yêu nhau đến thế, còn biết nói gì nữa đây.
a ha, báu vật gì của Xuân Lợi thế này
nanh cọp phải không
sao lại không tổ chức câu cá ở trằm Trà Lộc?!!!...
Trằm Trà Lộc nuôi rất nhiều cá. Ngồi ăn nhậu trên chòi, thỉnh thoảng lại nghe cá quẫy, cá đớp nước, cá búng mồi. Cá nhiều thế, vì bàu nước rộng mênh mông những 100 héc ta, chẳng biết người ta có cho câu cá tính tiền hay không? Lại còn chim nữa. Chim chuyền cành trong rừng. Chim bay sà sà trên mặt đầm. Người ta còn thả vào rừng quanh trằm, nào là khỉ, nhím, tê tê, công, trĩ... nghe nói có cả hươu nai, mang, mễn và lợn rừng. Khu bảo tồn sinh thái tự nhiên mà.
Mùa hè, nếu được làm một chuyến du lịch cả ngày cả đêm ở đây thì thật tuyệt.
Tôi nhìn ra đầm nước rộng mênh mông, chỉ ước có cái thuyền nhẹ, bơi vòng vòng quanh hồ để nhìn ngắm, để chụp ảnh cho đã con mắt, nhưng hình như ở đây không có dịch vụ này. Tiếc thật, vì từ thị xã Quảng Trị đến Trằm Trà Lộc, hình như chỉ có 8 cây số thì phải, dân phố thị vào mùa gió Lào, thứ bảy chủ nhật kéo xuống đây thư giãn thì còn gì bằng. Ngay cả từ thành phố Đông Hà đến, cũng có xa xôi gì đâu; dân trong Huế, trong Đà Nẵng, trong Sài Gòn, họ còn tìm ra Trằm Trà Lộc du lịch cơ mà.
Dzu và bạn bè ở Trằm Trà Lộc
Đến bây giờ, Dzu vẫn còn hình dung ra vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng của Trằm Trà Lộc. Vâng, người ta không tổ chức cho câu cá, không tổ chức cho bơi thuyền là rất đúng; vì càng gia tăng sự đậm đặc sắc màu cùa ngành công nghiệp du lịch, lại càng phá đi vẻ đẹp hoang sơ của trằm.
Mấy năm trước, Dzu nhớ là Dzu có đọc được một bài kí của ai đó ngoài quê, viết về Trằm Trà Lộc rất hay. Bài ký ấy viết về một chuyến đi tìm mồ mả cụ tổ của ai đó ở Trằm Trà Lộc, bởi ngày trước, nhờ rừng rậm ken dày, mà nơi đây, có thể coi như một căn cứ kháng chiến; còn lâu hơn nữa, thì đây là nơi ẩn náu của các loại tội phạm. Bài kí ấy, có nhắc đến một tên tướng cướp lừng danh, sống lẩn lút trong rừng Trà Lộc, nhưng uy danh thì lan ra ngoài rất rộng, nhờ gặp được tên cướp ấy, khi ông ta đã về già, đã xuống tóc tu tại gia, mà nhân vật trong bài kí tìm được mộ tổ, và tìm ra vài nấm mộ của các chiến sĩ trận vong. Nhớ là nhớ vậy, nhung Dzu không thể nhớ ra cụ thể, bài kí ấy tên gì, ai là tác giả. Quê miềng nhiều người viết văn, và viết hay lắm, biết đâu tác giả bài kí ấy Dzu cũng đã gặp mà không biết.
Ớt dầm Câu Nhi - Quảng Trị
Ớt dầm Câu Nhi - Quảng Trị
Từ thế kỷ XVI, trong tác phẩm Ô châu cận lục, tiến sĩ Dương Văn An đã nhắc đến những mặt hàng nông sản nổi tiếng của vùng đất Quảng Trị, như hồ tiêu, như ớt
. Đặc biệt, cây ớt dễ dàng trồng ờ vuờn nhà, ngoài đất bãi. Khi trái ớt chín, ăn vào cay đến xé lưỡi, cháy lòng. Ở Quảng Trị, ớt ngon nhất phải nói đến ớt của làng Câu Nhi. Bao đời qua, món ớt dầm như là thức ăn chính trong bữa cơm hằng ngày của người dân Câu Nhi. Ớt dầm Quảng Trị đang được các công ty nông sản hàng đầu Âu Á nhòm ngó đến.
Chuyện thẩu ớt dầm.
Tôi về làng Câu Nhi (huyện Hải Lăng) để tìm mua thẩu ớt dầm đặc sản làm quà tặng cho một người bạn xa quê. Nhiều người vẫn nói đùa đó là thứ đặc sản
đắng cay. Chưa ăn thì chưa biết, lỡ ăn rồi thì cái vị chua chua, cay cay của ớt dầm làm cho người ta ghiền không chịu nổi. Đến làng thì đồng hồ chỉ qua con số 11. Bữa cơm trưa của một gia đình nông dân đầu làng vừa dọn xong, với ớt trái dầm muối và rau lang luộc, trong đó 7 phần ớt, 3 phần rau. Thấy tôi hơi ngạc nhiên, ông Hoàng Tấn Phiên năm nay ngoài 60 tuổi, kể: Từ xưa, dân làng này đã ăn ớt nhiều hơn ăn rau. Từ khi ông mới lên 8, 9 tuổi. mỗi lần đi chăn bò về, bố mẹ ông để phần cơm cho con, bao giờ cũng gồm một bát cơm và một bát ớt dầm.
Làm ớt dầm cũng là một nghề lắm công phu, qua nhiều công đoạn. Nếu muốn ăn vội thì hấp ớt, trộn đường, chỉ cần dầm sơ là mang ra ăn ngay. Khoái khẩu nhất là món ớt trái dầm muối, Bà Phạm Thị Đớt, năm nay ngoài 70 tuổi, chuyên làm nghề dầm ớt, cho biết: vào tháng hai, tháng ba ớt chín đỏ đồng, sau khi hái quả, đem cắt cuống, rửa sạch, để khô rồi trộn muối vào ớt, với tỷ lệ bảy ớt một muối. Nhẹ tay, bỏ ít muối, ớt sẽ mau chua, chất lượng kém. Gia muối đúng tỷ lệ, quả ớt dầm lâu ngày vẫn cứng, ngon. Trộn đều ớt xong đem bỏ vào chum sành, phía trên miệng chum được cài kỹ bằng nhiều lớp mo nang tre, nếu là nang của măng cày thì tốt hơn. Ớt dầm để được cả năm, càng lâu càng thơm. Nói đoạn, bà Đớt bưng cho tôi xem một hũ ớt dầm đỏ mọng, thơm phức. Món ăn người dân Câu Nhi thường ăn kèm với ớt dầm là đọt rau lang. Rau trồng ngoài vườn xanh mơn mởn, hái đem luộc rồi trộn vớt ớt dầm. Bà Đớt say sưa kể: Vừa rồi có mấy Việt kiều ở Mỹ về thăm quê hương. Khi sang lại Mỹ, họ không quên mang theo một thẩu ớt trái dầm. Khi ăn hết, nó còn gọi điện về bảo bà gửi cho họ thêm vài thẩu nữa. Bà kể tiếp, không nói đâu xa, một người con của làng Câu Nhi, nguyên là bộ trưởng Bộ VHTT Trần Hoàn, mỗi lần về thăm quê, bà con tặng gì ông cũng không nhận, chỉ xin một thẩu ớt dầm, đặc sản quê hương mang theo.
Đến mặt hàng xuất khẩu
Từ công nghệ chế biến ớt dầm của dân làng Câu Nhi, Công ty Xuất nhập khẩu Quảng Trị, đã phát triển thành dây chuyền ớt dầm muối xuất khẩu sang thị trường Đài Loan. Ông Nguyễn Văn Thẻo, phó giám đốc công ty, cho biết, từ năm 1998 đến nay, mỗi năm công ty xuất sang Đài Loan gần 300 tấn ớt dầm. Trị giá mỗi tấn ớt từ 350 đến 370 USD. Ớt xuất khẩu được dầm muối ở bể lớn. Sau đó vớt ra để khô, bỏ vào bao, cho vào container, đưa xuống tàu. Nhiều khi chưa vào mùa ớt, nhưng phía bạn hàng đã yêu cầu được nhập ớt, công ty phải khất lại. Ông Thẻo khẳng định: Người nông dân trồng được bao nhiêu ớt, công ty chúng tôi sẽ thu mua hết bấy nhiêu. Tuy có nguồn tiêu thụ, nhưng diện tích trồng ớt của Quảng Trị không tăng lên bao nhiêu. Chủ tịch xã Hải Tân, Hoàng Văn Bảo giải thích: Trồng ớt rất khó, dể bị sâu bệnh, đặc biệt là bệnh chết rụi. Do vậy, người dân vẫn chưa mặn mà với nghề trồng ớt xuất khẩu. Họ trồng ớt để ăn là chính. Hiện tại, toàn huyện Hải Lăng, có chừng 100 ha ớt, toàn tỉnh Quảng Trị thì diện tích ớt chỉ gầp 5 lần. Đây là một nghịch lý. Trong lúc nhiều mặt hàng nông sản khác. như cà phê, tiêu không có thị trường xuất khẩu, giá rớt xuống thảm hại, thì người nông dân vẫn tập trung vào làm. Còn cây ớt vẫn có đầu ra, thì vẫn chưa được khuyến khích phát triển cho tương xứng với nhu cầu, tiềm năng. Mới đây, Công ty Cổ phần Giờ Nga của Liên Bang Nga (cung cấp hàng nông sản cho toàn bộ Liên Bang Nga ) đã tìm đến Quảng Trị, đặt dây chuyền thu mua, chế biến hàng nông sản. Theo ông Alexander Bakov giám đốc chi nhánh của Công ty Giờ Nga tại Quảng Trị, tại Nga, công ty của ông đã biết được các mặt hàng nông sản ở Quảng Trị có chất lượng rất tốt. Ông nói, sẽ thu mua hết các mặt hàng nông sản của Quảng Trị và các tỉnh của miền Trung, như hồ tiêu, lạc, ớt
. Đây là một cơ hội tốt cho nông dân Quảng Trị thực hiện giấc mơ đổi đời của mình. Muốn được vậy, trước hết nổ lực làm giàu, phải được bắt nguồn từ trong cách nghĩ của mỗi người dân Quảng Trị. (Theo SGGP )
cháo bột Quảng Tri
Cháo bột (ở miền Nam thường gọi bánh canh). Cháo bột được chế biến bằng nhiều loại bột: bột mì, bột gạo, bột lọc... Tùy theo từng loại bột mà dùng nước nóng hay nước lạnh để nhồi. Bột mì chịu nước lạnh, bột gạo và bột sắn (bột lọc) phải dùng nước nóng, nhồi cho tới lúc mềm mịn, đều tay, bột không ướt hay khô, đủ độ dẻo để thái thành những sợi nhỏ.
Nguyên liệu để nấu món bánh canh rất phong phú, từ thịt, cá, da heo, cho đến tôm, cua... Ðặc biệt, cá tràu (cá lóc, ca chuối, cá quả) rất thích hợp để nấu cháo bột này. Phong vị đáng nhớ nhất của món cháo bột Quảng Trị, là luôn có tình cảm gia đình đầm ấm, những người thân cùng nhau xì xụp thưởng thức vị cháo cay nồng xé lưỡi, thoảng mùi thơm của hạt tiêu.
Cháo bột (ở miền Nam gọi là bánh canh)
Ở Quảng Trị có rất nhiều quán cháo bột. Món này thường được nấu với cá tràu (cá quả), chả thịt heo viên ngọt lừ. Để thưởng thức hết vị ngon của cháo bột, bánh lọc, mời bạn ghé đường Trần Phú, nơi đây được mệnh danh là "phố cháo bột", nổi tiếng nhất có lẽ là quán O Hoàng. Mùi rau răm, lá ném (hành tăm) tỏa lan thơm phức dọc theo "phố", từ tờ mờ sáng cho đến tận nửa đêm.
món cháo bột cá tràu Quảng Trị
Cùng là cháo bột (hay còn gọi là cháo bánh canh) cá lóc, nhưng hương vị thơm ngon của cháo ở thị trấn Hải Lăng, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, khó có thể lẫn lộn với bất cứ nơi nào. Điều gì tạo nên sự khác biệt này?
Khi vừa nghe khách khen mấy lời về nồi cháo đang nghi ngút khói trên bếp than hồng, chị chủ quán nằm cạnh quốc lộ 1A, liền xởi lởi hé lộ: Cháo ngon quyết định phần nhiều bởi cá và bột. Cháo ở đây tuyệt đối không dùng cá lóc nuôi, nếu nấu cá nuôi thì có mùi khá khó chịu với những người quá quen nghề, quen vị như chúng tôi. Cá đồng thịt rất thơm, béo nhưng không ớn, khi sôi lên tỏa mùi đã thấy thèm.
Cá được thu mua từ những người làm nghề trong và ngoài huyện về ngâm một vài nước cho thải chất bẩn. Cách chế biến cũng lắm công phu, cá được luộc lên cho vừa độ chín là lấy xuống ngay để nguội, sau đó bóc hết thịt ra khỏi xương chia thành từng miếng nhỏ, phải chú ý lấy cho hết xương nhỏ trong các thớ thịt để khách ăn khỏi bị hóc xương. Số thịt này được ướp một chút muối tiêu nhưng nhiều củ nén. Xương cá xay ra chắt lấy nước nấu cháo. Khi bột chín tới thì thả cá vào cho thấm ngọt.
Những người bán cháo ở đây không mua bột bán sẵn ngoài chợ, mà mua gạo về rồi tự xay, lọc, lắng thành bột khô. Vì thế cánh bột rất mềm và tươi ngon, thơm mùi gạo lại không bị chua, bán bao nhiêu làm bấy nhiêu, chứ không để dư thừa.
Dọc con đường bắt đầu từ "ngã ba Hải Lăng" đi vào, có đến 4-5 quán, tha hồ cho bạn lựa chọn vào mỗi sáng sớm và buổi chiều. Buổi nào cũng thế, nếu bạn ghé chân muộn tí, là chỉ nhận được câu trả lời: "Dạ, hết rồi"!
Theo Thanh Niên
|
C | H | B | T | N | S | B |
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
|
20
|
21
|
22
|
23
|
24
|
25
|
26
|
27
|
28
|
29
|
30
| | | | | |
thời tiết, tin nhanh, vàng, tỉ giá
thời tiết, tin nhanh, vàng, tỉ giá
|
không có ớt?
gió núi | 07/01/2011, 12:35
Nói thật, nếu không có ớt thì thịt cá cũng mất ngon và làm gì có món cà ri Ấn Độ, món thịt lợn cay, rồi lấy đâu ra tương ớt để ăn khô mực.