Bản in của bài viết

Click vào đây để xem bài viết này ở định dạng ban đầu

hồ tĩnh tâm

chuyện ở núi Mỏ Quạ

CHUYỆN Ở NÚI MỎ QUẠ
(chuyện của một thời)


Lúc còn đóng quân ở Đông Bắc, trong khi chờ tuyển quân đưa vào chiến trường B2 Nam Bộ, có một giai đoạn, tiểu đoàn giao cho tôi phụ trách một tiểu đội gồm toàn tiểu đội trưởng, gọi là tiểu đội khung huấn luyện. Điều đó có nghĩa là, chúng tôi toàn là tiểu đội trưởng với nhau, sống nhàn cư với nhau để chờ đợt đi tuyển quân, thành lập tiểu đoàn tân binh, rồi huấn luyện tác chiến để đưa vào Nam.

Người xưa có câu, nhàn cư vi bất thiện. Chắc chắn tiểu đoàn trưởng biết điều đó, nên cứ sống ở đâu được một hai tuần, ông lại ra lệnh cho chúng tôi dời đi chỗ khác, để tránh chuyện lính tráng ở không bày đặt chuyện mèo mỡ với gái bản, đồng thời cũng để cho chúng tôi rèn lối sống cơ động theo kiểu sống dã chiến. Do chuyện này, có lần tiểu đội của tôi về sống ngay dưới chân đầu một dãy núi, có tên là núi Mỏ Quạ, bởi nó giống như một con quạ, xoãi cánh nằm phủ phục, và cái mỏ nhọn hoắt thì mổ ngay xuống mấy cái nhà đìu hiu nơi chúng tôi đang sống. Về phong thủy, không ai ngu gì lại sống ở một nơi thất địa như thế, bởi vì sống ở đó, thế đất không làm chết người, cũng làm cho khuynh gia bại sản. Quạ mà. Lại là mỏ quạ, nó sẽ lần hồi rỉa đi mạng sống của từng người; chỉ có mấy gia đình ở xuôi mới lên, bất đắc dĩ phải cặm dùi mà sống.

Nguyên tắc nhà binh, tiểu đội bao giờ cũng chia thành những tổ ba người, để sống và sinh hoạt. Tiểu đội khung của tôi có tất cả mười lăm tiểu đội trưởng, được chia làm năm tổ, tổ của tôi có Mỗ quê Hải Dương, và Trường quê ở Hà Bắc. Mỗ học hết lớp bảy, mới thi vào trường y tá chưa được một năm thì đi nghĩa vụ. Trường học xong lớp mười, thi rớt đại học nên đi lính. Tôi là sinh viên năm thứ nhất đại học Mỏ - Địa chất. Chúng tôi trọ trong gia đình một bà giá tuổi chừng hơn năm mươi, có hai cô con gái tuổi đôi mươi mười tám. Trong ba mẹ con, người được gọi là nhan sắc giòn dã nhất, lại chính là người mẹ, chứ không phải hai cô gái còn trẻ. Ngôi nhà của họ là nhà tranh ba gian, vách là khung tre trát đất đỏ trộn với rơm. Hai bên cái bàn thờ tuềnh toàng là hai cái buồng, buồng bên phải nhìn vào là buồng của người mẹ, hai cô gái sống với nhau trong cái buồng còn lại, ba người lính chúng tôi ngủ trên hai bộ ngựa ở phía ngoài. Và tất nhiên, chúng tôi chẳng có việc gì để làm, ngoại trừ việc thỉnh thoảng đi lấy củi đem về cho tiểu đội nấu cơm. Việc nấu cơm là do tiểu đội phó phụ trách, hàng ngày phân người đi chợ, và cử người lo nấu nướng, chúng tôi chỉ có việc, đến buổi là kéo qua nhà tiểu đội phó ăn cơm. Cả xóm mới ở đầu núi Mỏ Quạ này, chỉ có gần chục ngôi nhà, ở rải rác, cách xa nhau từ vài chục mét đến vài trăm mét, lại toàn là đàn bà với trẻ con. Xin nói rõ, hồi đó ở Miền Bắc rất hiếm đàn ông, vì con trai cứ lớn lên là đi lính, rồi vào chết ở chiến trường Miền Nam, hay chiến trường Lào và Kampuchia. Vì điều này, khi tiểu đội khung của tôi đến đồn trú, cả xóm mới vốn đìu hiu, bỗng trở nên có sinh khí hẳn ra, là nhờ có hơi hướm đàn ông của lính. Tôi biết rõ, lính tráng không bao giờ bỏ lỡ những cơ hội vàng như thế, với những người đàn bà mòn mỏi trong nỗi thèm khát đàn ông, vì họ, hoặc là chồng đã có giấy báo tử, hoặc là bằn bặt tin chồng, không biết chết sống thế nào ngoài mặt trận. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu mà chính trị viên tiểu đoàn giao cho tôi, là phải bằng mọi cách, ngăn chặn không cho lính tráng đi o mèo.

Nhiệm vụ được giao là thế, nhưng tôi ngăn thế nào được, khi tất cả mười lăm người đều là tiểu đội trưởng như tôi, mà trong đó, nhiều người có thâm niên tiểu đội trưởng đã hai ba năm, hơn hẳn tôi về tuổi tác và kinh nghiệm sống. Có điều, được cấp trên tin cậy giao phó, tất nhiên tôi phải nêu gương nghiêm túc thì mới hy vọng ngăn được anh em lúc nào cũng lăm le chuyện o mèo. Chính Mỗ và Trường đã nhiều lần nói với tôi, ngu gì nhịn đói, để rồi vào chiến trường chết khát, không biết cái đó nó dọc ngang thế nào. Họ nói thế, có nghĩa họ tuyên bố không chịu khuất phục số phận, trong khi đám đàn bà con gái, lúc nào cũng hừng hực dâng hiến. Tôi nói điều này, những người thuộc thế hệ chúng tôi, chắc chắn đều biết. Vào cái thời Miền Bắc, vừa phải đánh trả cuộc chiến tranh đường không của Mĩ, vừa phải huấn luyện đưa quân vào chiến trường, chuyện trai gái mèo mỡ là chuyện cấm kị số một, được coi là xấu xa số một; tuy nhiên thực tế cuộc sống vẫn là thực tế, chẳng có ông ba đầu sáu tay nào đủ phép thuật tài ba mà ngăn chặn được cả, kể cả các vị chỉ huy tiểu đoàn mà tôi được biết. Đúng ra, các ông ấy còn tợn hơn nhiều. Tình tang tình em đi rình trung úy mà. Ai chả biết thế. Cứ súng lục bên hông là đàn bà con gái theo nườm nượp.

Khi ba anh em chúng tôi đến trọ trong ngôi nhà héo lánh, bà chủ nhà đã nói với tôi, khu đất này ma quỷ nhiều lắm, nhà bà lại ngay đúng nơi mỏ quạ mổ xuống, vì thế, hai đứa con trai nhỏ của bà đều đã chết từ khi lên mười, còn chồng bà thì chết trận ở chiến trường Quảng Trị. Bà còn nói thêm, đừng có vác chõng ra nằm ở hiên nhà, vì nằm ở đó thế nào cũng bị bóng đè; và, ban đêm mà thấy đất đá từ ngoài ném vào vườn, vào nhà, thì đó không phải là người ném, mà là ma ném, cứ lờ đi cho xong chuyện, chớ dại dính vào mà lụy đến mạng sống.

Là sinh viên, nên tôi không tin vào những chuyện mê tín dị đoan, vào một buổi trưa, tôi đã vác cái chõng tre ra góc hiên nằm ngủ, quả nhiên là tôi bị bóng đè thật. Đang ngủ, tự nhiên tôi thấy tức ngực và nghẹt thở, rồi thấy cái chõng nghiêng hẳn về một bên, nên tôi phải gồng người lật lại, vì thế tôi bị rớt bịch xuống đất mới tỉnh. Tỉnh dậy, tôi lại leo lên chõng nằm ngủ, và cảnh ấy lại tái diễn. Sau ba lần như thê, tôi cạch hẳn, không còn dám nghĩ vác chõng ra hàng hiên nằm ngủ.

Chúng tôi đến gia đình bà góa vào buổi sáng, buổi chiều tôi đã thấy Mỗ cò kè với cô chị gái hăm hai tuổi ở ngoài đồi sim. Sáng hôm sau đến lượt Trường dẫn cô em gái hai mốt tuổi đi đâu mất tăm mất tích, bỏ cả cơm trưa không ăn. Được vài ngày thì họ dính thành cặp, cứ xong cơm chiều là kéo nhau lủi đi mất dạng. Ở nhà chỉ còn có tôi và bà chủ mà tôi gọi là thím Hương, và xưng cháu, bởi lẽ tôi cũng chỉ đáng tuổi con cháu của bà. Vào một đêm mà Mỗ và Trường đã dẫn hai cô con gái đi đâu đó, khoảng hơn tám giờ tối, tự nhiên tôi nghe tiếng đất đá ném vào vườn rào rào, liền bấm đèn pin ra xem có chuyện gì. Khi tôi bước ra sân quét đèn thì tiếng đất đá không còn nghe nữa, nhưng khi tôi trở vào, lại nghe tiếng đất đá rớt lịch bịch trước sân. Chuyện đó cứ diễn ra hai ba lần, khiến tôi cũng thấy rờn rợn.

Thím Hương trong buồng bước ra nói:

- Kệ thây nó. Ma ném đá đấy, em sợ thì vào trong buồng với chị.

Ôi trời! Tôi hết cả hồn vía. Ai đời người đàn bà hơn bốn mươi tuổi lại gọi tôi bằng em, lại rủ tôi vào buồng nằm ngủ. Đã thế, lúc ấy thím lại mặc cái áo cánh phin, dưới ánh đèn dầu tờ mờ, tôi nhìn thấy rõ cả hai bầu ngực ngồn ngộn. Hoảng qúa, tôi lấy cớ phải đi kiểm tra tiểu đội, liền khoác khẩu AK lên vai, rồi xách đèn pin ra đi. Bình thường, tôi chẳng biết sợ mà là gì, nhưng đêm hôm ấy, tự nhiên tôi thấy hồi hộp kì lạ; chẳng phải vì tôi sợ ma, mà vì tôi cứ nhớ tới hai bầu ngực căng vồng và câu nói của thím Hương. Ở đâu lại ra một người đàn bà như thế nhỉ, ngoài bốn mươi mà vẫn còn đẹp hây hẩy.

Loanh quanh một lúc rồi tôi cũng phải về. Mỗ và Trường đã ngủ ở bộ ngựa bên kia. Họ ngủ trong cái màn vải cáu bẩn màu nâu đất của bà chủ nhà cho mượn. Còn tôi thì giăng cái màn tuyn Liên xô để ngủ. Đêm rừng Đông Bắc lành lạnh, nên nằm xuống một lúc thì tôi ngủ thiếp đi. Thế rồi tôi mơ thấy chuyện ấy. Tôi thấy mình đang ngồi với Phụng, chúng tôi ôm chặt lấy nhau và hôn nhau thật đắm đuối; rồi chúng tôi từ từ đổ xuống vệ cỏ bên bờ sông Công. Đây là chuyện mà từ khi quen nhau, tôi không bao giờ dám nghĩ tới, bởi vậy tôi run bần bật, toàn thân căng ra như có lửa ở bên trong. Mở choàng mắt ra, tôi nhận thấy thím Hương ngay bên cạnh, trắng ngồn ngộn. Lạ nhất là tôi cũng A Đam bên cạnh bà E Va mà tôi chỉ đáng tuổi con. Giật tay thím ra, tôi ngồi bật dậy, vơ vội quần áo mặc vào. Thím Hương dùng một bàn tay bịt miệng tôi, nói nhỏ hào hển. “Đừng sợ. Không có gì phải sợ. Vào trong buồng với chị đi em!”.

Run như cầy sấy, tôi tụt khỏi bộ ngựa, rón rén bước ra sân, rồi đi thẳng ra con dốc, ngồi tựa xuống một thân cây mà khóc.

Lúc hừng đông bật sáng ưng ửng phía chân trời tôi mới trở về.

Chiều đó, tôi lấy cớ có nhiệm vụ mới, kéo cả tiểu đội đến một nơi ở mới phía bên kia núi Mỏ Quạ, thuộc một bản nhà sàn của người Cao Lan.

Xóm núi đìu hiu Mỏ Quạ, đã trở thành một kỉ niệm rất khó quên.

Dzu- htt


VnVista I-Shine
© http://vnvista.com