Bản in của bài viết

Click vào đây để xem bài viết này ở định dạng ban đầu

hồ tĩnh tâm

những mùa chuột phương Nam- Hồ Tĩnh Tâm

những mùa chuột phương Nam- tạp văn của Hồ Tĩnh Tâm

alt

Thích nhất là dậm cù bắt chuột vào mùa lúa. Vì lúc này, chuột từ khắp nơi, kéo về đồng lúa rất nhiều. Khi các cánh đồng lúa đã gặt, người dân hay chất rơm thành từng đống trong ruộng, chúng tôi thi nhau dậm lên các đống rơm, dồn cho chuột chạy vào nấp trong một đống rơm lớn nào đó, ở giữa vòng dậm cù, rồi bủa lưới lên mà bắt. Chuột đồng mùa lúa, béo núng nính, thịt thơm ngon hơn bất cứ mùa nào trong năm.


NHỮNG MÙA CHUỘT PHƯƠNG NAM
Tạp văn: Hồ Tĩnh Tâm



Suốt cả tháng nay, trời lúc nào cũng mưa sầm sịch. Bầu trời luôn vần vũ những đám mây ướt sũng, nặng nề, chậm chạp. Da trời thi thoảng hé ra, thì bợt bạt màu xám chì, chẳng hứa hẹn gì có một ngày nắng ráo. Vậy mà đi nhà hàng, lạ thay, vẫn thấy người ta nhốt chuột đầy trong các lồng sắt. Chuột đồng. Chuột cống nhum. Chuột dừa. Ở Hương Sen, có lần anh bạn cùng tổ chuyên môn với tôi, gọi món chuột quay, thầy Toàn can, “đừng gọi chuột cống nhum thầy ơi, coi chừng nhầm phải chuột cống”. Bạn tôi nói, “nhà hàng lớn người ta giữ uy tín, có đâu chuyện treo đầu dê bán thịt chó mà sợ”. Thế nhưng chiều ý thầy Toàn, chúng tôi vẫn gọi thêm món thịt chuột đồng. Ai thích gì ăn nấy, cũng chỉ là chuột mà thôi.

 

Đêm qua trời cũng mưa. Mưa dầm dề, rả rích. Mưa khiến khí trời ẩm ướt và giá lạnh. Tôi  bị cảm vì thời tiết, nhức đầu không chịu nổi, nên phải tắt đèn đi ngủ sớm. Nhưng dù đang cảm, theo thói quen, tôi ngủ sớm thì dậy sớm, mới ba giờ sáng đã thức. Nhớ lại chiều qua ngồi uống cà phê với anh bạn, anh ấy kể cho nghe hàng loạt chuyện, về việc đi vùng biên làm phóng sự về chuột. Săn bắt chuột. Mua bán chuột. Chế biến thịt chuột. Làm giàu từ chuột. Vậy là tôi ngồi viết về chuột.

 

Cần chi cá lóc cá trê

Thịt chuột thịt rắn nhậu mê hơn nhiều

Ca dao Nam Bộ

 

 

1.

Mùa khô năm 1974, tôi cùng tay trinh sát tiểu đoàn, vượt vòng vây trung đoàn  10, sư 7, băng đồng về trung đoàn bộ(E207) ở Kinh Chuối, nộp báo cáo quân lực. Sáng hôm sau, chúng tôi ăn quấy quá mỗi người mấy chén cơm nguội với muối mè, rồi ra đi vào lúc trời còn tờ mờ. Đồng đưng rộng ngút ngát. Đưng lác bị nắng thiêu cháy rụi, gục chết ràm rạp, đỏ quạch, vàng khè. Đi trên đồng cháy lúc này, rất dễ bị trực thăng soi bắn, nhưng có cái lợi là chúng tôi có thể quan sát được đối phương từ xa, có gì thì cứ nhảy xuống mấy cái mương cạn, vẫn còn dày đặc bình bát và lau sậy, tìm nơi ẩn nấp, hoặc nột quá thì đâu lưng, lợi dụng địa hình bắn trả; sợ nhất là lỡ gặp phải biệt kích, nên mới chọn cách vượt đồng vào ban ngày, tụi rằn ri rất ít đi ém quân nằm phục. Gần trưa, chúng tôi về tới vùng bờ bao Mỹ Hoà, nơi tiểu đoàn đang trụ lại chống càn, ròng rã gần một tháng trời nay, với tụi trung đoàn 10 sư 7. Đối phương bao vây bốn phía, xuyên thủng đội hình của chúng không phải dễ, lơ mơ là mất mạng như chơi. Thế nhưng tôi biết chắc rằng, mỗi khi chúng nả pháo, hoặc trút bom xuống trận địa, là lúc chúng tôi có thể luồn qua vòng vây của chúng rất dễ dàng, vì tụi lính sư 7 lúc này, chẳng quan tâm gì tới trận địa của chúng tôi. Và trưa hôm đó, khi tụi phản lực F4 nhào xuống ném bom, lợi dụng khói bụi mịt mù, hai chúng tôi đã trở về được đơn vị, giữa vòng vây của kẻ thù một cách trót lọt.

 

Bấy giờ tôi là trợ lý tác chiến của tiểu đoàn, kiêm luôn trợ lý quân lực, ở chung với anh Ruộng là trợ lý quân khí. Chúng tôi có một cái hầm chữ A để tránh bom pháo, đào theo kiểu chữ Z, và một cái chòi nhỏ bằng lau cù. Không hiểu tại làm sao, giữa bom đạn như mưa như bão, mà cái chòi nhỏ túm húm của chúng tôi, vẫn chẳng hề hấn gì. Khi tôi về tới nơi, anh Ruộng vẫn để dành cơm cho tôi, bởi anh nói rằng, anh biết thế nào tôi cũng sẽ về vào trưa nay. Trước đó, chúng tôi vẫn chỉ ăn cơm với cá khô, chủ yếu là khô cá mối, thứ khô cá biển, rất giống khô cá lóc. Thế nhưng trưa hôm đó, anh Ruộng để dành cho tôi cả một nắp soong quân dụng, đầy ắp thịt chiên, thơm phưng phức. Tôi hỏi thịt gì, anh Ruộng nói là thịt chim, cứ việc chấm muối ớt mà ăn. Tôi ăn gần hết đống thịt, mới hỏi anh Ruộng, chim ở đâu ra mà nhiều vậy, bấy giờ anh Ruộng mới cười mà nói, đánh nhau ì đùng, lấy đâu ra chim, thịt chuột đấy. Sống và lớn lên ở Miền Bắc với mẹ, tôi chưa bao giờ nghĩ là thịt chuột ăn được, bởi nó là con thú hạ đẳng nhất, đáng ghét nhất, dơ bẩn nhất, kinh tởm nhất, con thú truyền bệnh dịch hạch. Nhưng lỡ ăn rồi, lại thấy thịt chuột thơm ngon kì lạ, tôi chẳng việc gì phải trách anh Ruộng đã lừa tôi ăn thịt chuột. Dù gì thì thịt chuột vẫn là thịt, vẫn ngon hơn cá khô vạn lần. Trong nhật kí chiến trường của mình, tôi ghi rõ, lần đầu tiên tôi ăn thịt chuột là ở bờ bao Mỹ Hoà, thuộc huyện Kiến Phong, tỉnh Kiến Tường. Từ đó tôi bắt đầu ghiền thịt chuột, nên phải học anh Ruộng cách làm bẫy sập, cách gài bẫy sập, để có thịt chuột mà ăn.

 

Tụi trung đoàn 10 vây chúng tôi, bằng cả bộ binh, thiết giáp, pháo binh, cả trực thăng và phản lực F4, không phải nguồn lương thực, thực phẩm cung ứng của cấp trên, lúc nào cũng đến được tiểu đoàn. Nhiều khi, pháo bầy 105 ly và 155 ly, cùng bom tấn, thi nhau đào bới tanh bành trận địa, khiến chúng tôi lâm vào cảnh hai ba ngày không có hột gạo, phải nấu cả môn ngứa mà ăn. Thứ này ăn xong, suốt cả ngày bị ngứa mồm tới muốn móc họng quăng đi, nhưng không ăn thì đói không chịu nổi. Nay tôi với anh Ruộng, giữa chiến trận bời bời lửa khói, ngày nào cũng có thương binh liệt sĩ, tự nhiên lại có thịt chiên, thịt nướng, còn đòi hỏi gì nữa, sướng còn hơn cả Từ Thức lên tiên. Bởi vậy, dù đạn bom nguy hiểm thế nào, cứ sập chiều tối, là tôi với anh Ruộng lại thay nhau đi đặt bẫy sập, thứ bẫy làm rất đơn giản, bằng cách dùng các nhánh trâm bầu nhỏ, kết thành cái vỉ, to cỡ cuốn tập học trò, gắn cò bẫy làm bằng dây thép, đắp đất sét lên trên, rồi đem cài dọc theo bờ bao, vậy là có thịt. Thịt chuột. Thịt chuột đồng. Có điều bẫy sập, khi sập dính con chuột, sức nặng của đất sẽ làm chuột chết bẹp dép, có khi vỡ cả bụng, nên phải thường xuyên đi thăm, nếu không, chuột chết lâu sẽ bị hôi. Lúc bấy giờ hai anh em tôi có khoảng gần chục cái bẫy sập, mỗi cái bẫy sập xuống, chỉ dính một con. Mỗi đêm cài bẫy, chúng tôi đi thăm khoảng ba lần, mỗi lần bắt được chí ít cũng năm con, như vậy là trong ngày, chúng tôi đã có khoảng hơn ký thịt chuột đã mổ bụng, lột da, chặt bỏ đầu và bốn bàn chân. Tiêu chuẩn ăn cao hơn cả suất ăn tiểu táo của quân đội. Chiến tranh cứ chiến tranh, nhưng chúng tôi vẫn cứ béo ra phì phì; bởi lẽ, lỡ hôm nào không có gạo, thì thay bằng đi thăm ba lần trong đêm, chúng tôi tăng thêm thành năm lần, sáu lần. Nếu tính mỗi lần đi thăm, bắt được năm con chuột, mỗi đêm chúng tôi bắt được hàng chục con, ăn ngã nào cho hết. Ăn toàn thịt chuột đồng béo ngậy, chúng tôi không phát phì mới lạ. Mà hồi đó, con người chiến tranh với nhau, bắn giết nhau, chứ con người làm gì chiến tranh với chuột, thành ra giống chuột đồng mắn đẻ, cứ mặc sức sinh sôi từng đàn lúc nhúc, trở thành kho dự trữ thực phẩm tươi sống dồi dào cho lính. Cồn Cỏ có con “cá đua”, còn Tháp Mười có con “cá chuột”. Lính tráng thời đó, ai mà không ăn thịt chuột, để mà sống, để mà chiến tranh. Chuột đồng Tháp Mười, thành kho hậu cần cho quân ta thật sự.

 

2.

Những năm đầu, sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, tiểu đoàn tôi lên chốt giữ ở sông Trăng biên giới, tổ chính trị tiểu đoàn của chúng tôi, ở trọ trong ngôi nhà nhỏ bằng tre lá của cha con anh Hùng, tại Ba Gò, Hồng Ngự. Anh Hùng nguyên là du kích, bị đạn nhọn bắn gãy xương sống, khiến bán thân bất toại, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ nghe radio, hoặc vặn cassette, nghe tuồng Điệp và Lan, tướng cướp Bạch Hải đường, người tình trên chiến trận... Mọi việc làm ăn đều một tay cha anh làm tất tật. Tôi không nhớ ông già tên gì, chỉ nhớ ông thứ ba, gọi là ông Ba. Anh Hùng dềnh dàng, đô con bao nhiêu, thì ông Ba nhỏ thó, loắt choắt bấy nhiêu, nhưng dai sức như đĩa, cả ngày không lúc nào ngừng động tay động chân, hết làm ruộng, lại đi đặt lờ đặt lợp, đi thổi tu huýt bắt gà nước, gà đẫy(hai loài chim to như con cuốc cuốc, thịt ngon hơn cả thịt gà), và... đi đặt bẫy trập bắt chuột đồng. Hồi đó Miền Nam ít thấy ai sống bằng nghề buôn bán chuột, ngoài chợ thỉnh thoảng thấy có bán, cũng chỉ bán chuột cống nhum, to như con heo con. Bởi vậy ông Ba cũng chỉ sắm đâu chừng bốn năm chục cái bẫy trập, loại bẫy bằng lồng sắt, khi chuột vào ăn mồi thì sập cửa bắt sống. Với mấy chục cái bẫy trập ấy, lâu lâu ông Ba lại đem về nhà vài chục con chuột. Anh Hùng ngồi trên cái xe lăn tự làm lấy bằng gỗ, nấu nước vôi, nhúng từng con chuột vào, rồi tuốt sạch lông, mổ bụng, đem rửa thật sạch, sau đó dùng thớt ép cho chuột khô bớt nước, ướp ngũ vị hương, bột ngọt, sả, ớt... Vậy là có thịt chuột để chiên, để khìa, để nướng, để xào lăn. Cả tổ chính trị của tôi, với cha con anh Hùng, tha hồ mà nhậu tràn cung mây, nhậu tàn canh khói lửa, nhậu đến chìm xuồng tại bến.

 

Lúc bấy giờ, tổ  chính trị tiểu đoàn(D1- E5(E207 cũ)- F8) có tôi, anh Trần Oanh, anh Phùng Gia Thặng, thì tôi là người hay theo ông Ba ra đồng, ra gò, ra bãi nhất. Đơn giản vì tôi là người hiếu động, thích theo ông ba đi giăng lưới, giăng câu, đặt lờ, đặt lợp, đặt bẫy trập, hay đi đào mà lươn, mà ếch, và đi xôm rắn. Hơn nữa tôi lại có khẩu cạc bin M2, với hàng mấy thùng đạn, trong đó vài trăm viên đã được tôi tháo đầu đạn, đổ bỏ bớt thuốc súng, tôi thích ra đồng để bắn chim. Nhờ theo ông Ba, mà tôi đã được mấy lần cùng ông, dậm cù bắt chuột. Cách bắt chuột đồng này rất đơn giản, nhưng cần phải có tấm lưới chụp thật lớn. Chúng tôi thường tìm những nơi đưng lác um tùm, sau đó mỗi người dùng một cây gậy dài, vừa hò hét, vừa khua loạn xạ vào đưng lác. Hai chúng tôi đi thành phòng tròn. Mới đầu là vòng lớn. Càng về sau càng xiết cho vòng nhỏ lại. Tất nhiên khi đi phải dẫm cho đưng lác ngã rạp xuống. Khi đám đưng lác còn lại, chỉ còn nhỏ vừa cho tấm lưới chụp lên, thì chúng tôi bủa lưới lên trên, bắt đầu cuộc vây bắt. Hồi đó chuột đồng nhiều lắm. Chúng lúc nhúc trong lưới hàng trăm con. Con nào con nấy béo núc na núc ních. Tha hồ mà bắt. Thích nhất là dậm cù bắt chuột vào mùa lúa. Vì lúc này, chuột từ khắp nơi, kéo về đồng lúa rất nhiều. Khi các cánh đồng lúa đã gặt, người dân hay chất rơm thành từng đống trong ruộng, chúng tôi thi nhau dậm lên các đống rơm, dồn cho chuột chạy vào nấp trong một đống rơm lớn nào đó, ở giữa vòng dậm cù, rồi bủa lưới lên mà bắt. Chuột đồng mùa lúa, béo núng nính, thịt thơm ngon hơn bất cứ mùa nào trong năm.

 

3.

Về chuột thì còn nhiều điều để nói lắm, bởi nó là con vật có tên trong mười hai con giáp, con vật tràn ngập khắp cả hành tinh, con vật được nuôi làm thí nghiệm, con vật được lên bàn tiệc của các nhà hàng, khách sạn, con vật đã thành ca dao, thành thơ, thành nhạc, con vật ngày nay đang bị săn bắt để buôn bán làm giàu. Trong đời tôi, tôi đã từng theo ông Ba đi đào hang bắt chuột cống nhum, đã từng đi đào hang chuột đụng nhằm rắn hổ đất, đã từng giết chuột, và bị chuột cắn cho toé cả máu bàn tay. Và dĩ nhiên, là công dân Nam Bộ, tôi cũng từng đánh chén, không biết bao nhiêu các món thịt chuột ở trên đời. Nhưng thôi, nói sao cho hết. Hôm nay xin tạm dừng ở đây. Lý con chuột một cái cho sướng đời cái đã.

 

- Út ơi! Lý con chuột, Út Hường ơi!


HTT


alt

 

Lý Con Chuột
(ảnh sinh viên đại học Cửu Long)

 

MÀU LỬA ĐỐT ĐỒNG
Hồ Tĩnh Tâm
 
 
Lặn lội đồng xa về thăm bạn
Mùa đốt đồng lửa cháy suốt đêm thâu
Chẳng tô chén rườm rà chi lâu
Con ri cóc nướng lèo là xong tuốt.
Bạn vẫn như xưa, ngày dậm cù bắt chuột
Tối nhâm nhi câu vọng cổ ca chơi;
Và căn nhà, trống trếnh, gió trăm nơi
Tha hồ rủ nhau vô phá phách.
Thằng cu con tròn như trái quách
Lên bảy tồng ngồng chưa một chữ cắn đôi,
Bà vợ nhiệt tình như cái dấu chấm dôi
Kéo giai điệu bạn bè ra chút nữa.
Và hai đứa vẫn ngồi ngoài ngạch cửa
Rót cho nhau trời đất ắp đầy ly .
Uống cho say. Đời có là gì
Màu dân dã dân gian hơn tất cả;
Đồng đội cũ vẫn nằm trong mộ đá
Ta uống giùm tụi nó chén tình thâm;
Giàu có vốn lạnh lùng với khách ngự lâm
Đời lính chiến tới tận cùng máu thịt.
Uống! Cứ uống! Ông Lưu Linh dẫu biết
Cũng cười trừ mấy đứa hỏng này thôi.
Nhiêu khê làm gì. Cái thói khó chơi
Đọt tầm duộc vẫn còn chua lắm đấy;
Ngày xưa chúng mình đào đâu thấy
Một nhủi dế thuốc giồng kéo đỡ lạnh cơn mưa.
Thằng bạn lóng rày vẫn hệt như xưa
Cái chân gỗ chấm nạng vào mặt đất;
Những dấu chấm, chấm chấm hoài rất thật
Chấm vào tôi màu lửa đốt đồng.
 
                                  H.T.T.
 

alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
đi mua sắm thú vị thật- nhất là khi vào tiệm lựa đồ đám cưới

 

NGƯỜI LÍNH LẠI RA ĐI
Hồ Tĩnh Tâm
 
Chia tay rồi thành phố nắng ta ơi
Cái thuở yêu nhau khát khao ngày gặp mặt
Người lính lầm lì đeo ba lô con cóc
Suốt đời bạc tóc hành quân.
 
Người bạn gái ở xa, trận địa ở gần
Trưa khét nắng, miếng lương khô đắng chát
Khẩu súng nặng nghìn cân trong bàn tay nắm chặt
Thành phố gần trước mắt chập chờn xa.
 
Chia tay rồi thành phố nắng của ta
Bộ quân phục nhuốm màu đất đỏ,
Đèo hun hút thét gào muôn trận gió
Gió mặt trời khô khát cả tư duy.
 
Người lính lầm lì đi. Người lính lầm lì đi
Biển Đông sau lưng, Trường Sơn trước mặt
Lồng lộng trên đầu trời xanh như mắt
Đỏ au đường hun hút bụi mù bay.
 
Vết đạn chì gọi mãi phút chia tay
Gói cả đời mình- thành phố nắng hôm nay.
 
                             Đà Nẵng, 1983
                                     HTT
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt

UỐNG RƯỢU GIỮA ĐỒNG
Hồ Tĩnh Tâm

 
 
Tóm được con rắn nước giữa đồng
Sẵn ve rượu nướng trui bày ra nhậu
Bàn đã có bờ ruộng mơn non cỏ
Mâm tuyệt vời một lá sen xanh.
 
Hai đứa chân phèn thành hai tiên ông
Ngồi lồng lộng giữa gió đồng quần thảo
Không đủ say thì chấm cay thật gắt
Muối ớt cháy lời nổ trận cười vang.
 
Chuyện mùa màng có gì mà phải nói
Lúa xạ rồi mai mốt gặt hái thôi
Cô hàng xóm mới là trên tuệt diệu
Cầm chai đi cho say quắt duyên nhau.
 
Chiều xế bóng, mặc kệ chiều xế bóng
Ta cứ vỗ đùi vọng cổ nghêu ngao
Rượu bốc lửa, đã gì đâu, đồng rộng
Ngẩng đầu lên đụng cả trời cao.
 
Quẳng hết lo toan vào chai này nhé
Rượu giữa đồng ai đã được như ta
Thôi, chấm dứt! Hết một ngày sạch nợ
Cánh đồng ơi, đợi đến sáng mai nha! 
 
HTT
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt

NHỚ BẠN Ở TÂN HỒNG
Hồ Tĩnh Tâm

 
Trầm ngâm chiều
Trầm ngâm phiêu diêu
Sợi khói xanh lãng đãng
Nhớ bạn ở Tân Hồng mòn con mắt
 
Ngày ấy cưỡi con trâu sắt
Nửa đêm mấy đứa băng đồng đến Sa Rài
Ve rượu vơi dần đến sớm mai
Còn lại trong veo trong vắt
Tiếng cười con gái buổi hừng đông
 
Lính sư đoàn thời bình đi sạ lúa
Lúa trổ vàng hườm như đạn AK
Buổi trưa nằm khểnh nghe vọng cổ
Nghe nắng đổ dồn từ biên giới xa
 
Sông Tân Thành kẻ chỉ băng băng
Ngẫu hứng đêm trăng ngồi tắc ráng
Bạn chở ta thẳng đến Ba Gò
Bẻ cổ vịt làm thơ cùng rượu trắng
 
Lý con cóc, lý cá trê loạn xạ
Lục huyền cầm rung dưới ngón tay chai
Chợt mưa Tháp Mười giật nghiêng mái lá
Nghe sấm rền tưởng trận đánh hôm qua
 
Trầm ngâm chiều
Trầm ngâm trong phiêu diêu
Vắng đến tận kiệt cùng từng giọt rượu
Ta nhớ bạn ở Tân Hồng biết bao nhiêu

HTT
 

alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt
 

MỘT CHIỀU MƯA
Hồ Tĩnh Tâm

 
Đã bao giờ như thế một chiều mưa
Tôi ngồi với chính mình trên bờ sông Cái Cá
Gầy guộc cô đơn trôi vào miền xa lạ
Thị xã dịu dàng cúi xuống cuộc đời tôi
 
Cầu Vồng ơi, cây cầu bắc qua mơ và thực
Đưa tôi về Chiều Tím ngã ba
Em bán dưa gang, tôi mua niềm hẹn ước
Chuyến xe đò vụt chở giấc mơ xa
 
Bất chợt nắng mưa oà lên nỗi nhớ
Bến Cầu Tàu áo trắng bạc như mây
Tôi khóc với riêng tôi nghẹn trong từng hơi thở
Cổ Chiên sông sóng chở trái tim này

Bến Bình Lương hẹn tình tôi ở lại
Nhưng mưa chiều níu mãi tiếng chuông ngân
Em đẹp qúa, trẻ trung như tiếng hát
Nhịp hồn tôi rung phím những cung đàn
 
Thôi ta về phường 9 nỗi mơ trăng
Đêm huyền diệu một con tàu đứng đợi
Đời là rộng còn lòng ta diệu vợi
Cơn mưa chiều lay thức cõi giá băng
 
Chiếc cầu treo bắc qua miền sóng vỗ
Chùm dây văng cột chặt cuộc tình hờ
Hoa giấy đỏ ngõ nhàg ai vẫn nở
Cơn mưa chiều trỗi dậy một mầm thơ
 
Thị xã gọi về lầu Văn Xương Các
Mưa vẫn mưa hoài khúc nhạc tương tư
Đối diện với riêng mình như ngồi cùng ai  khác
Cơn mưa chiều thực thực hư hư
 
Đời là rộng lòng ta không là gió
Sao lang thang đến được chốn vô cùng
Thôi đành lòng đánh đắm tuổi sau lưng
Cát bụi thân ta cơn mưa chiều sẽ nhớ.
 
HTT
 

alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt
 

Thơ Gởi
HTT



Kiệt sức rồi tôi vẫn viết về em
Bờ vai ấy và đôi bàn tay ấy
Niềm hạnh phúc ngọt ngào tôi đã thấy
Trưa Sài Gòn thổi tóc em vào tôi

Em chở tôi bay qua phố qua phường
Em chở tôi lên thiên đường ân ái
Thần vénus khiến tim tôi vụng dại
Lửa môi em đốt cháy nẻo tôi về
 
Nắng Sài Gòn thổn thức những đam mê
Tôi đổ vào làn hương em dìu dịu
Giây phút ấy chim không còn líu ríu
Hót bài ca ơi chín nhớ mười thương

Em rất gần, hơi thở ấm vòm cây
Nhịp tim đập tan thời gian từng mảnh
Sâu thăm thẳm mắt nhung huyền lóng lánh
Sài Gòn ơi thế giới đẹp vô cùng
 
Chia tay rồi từng đêm nhớ mung lung
Thao thức với Ya Mê từng tín hiệu
Em trút hết trái tình em, tôi hiểu
Nửa đêm tàn đâu tàn hết yêu thương
 
Bài thơ này gởi vệ cỏ bên đường
Nở vô thường đợi chiều ru giấc mộng
Em và tôi vượt ra ngoài sự sống
Để trường tồn vĩnh viễn một tình yêu!
 
Võ Văn Tần quán nhớ- htt
 

alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
 

TƯƠNG TƯ CHIỀU
Hồ Tĩnh Tâm

 
 
Tương tư chiều. Tương tư chiều
Ngõ vắng buồn tênh xiêu chiếc lá
Đọng tím hoàng hôn trên tượng đá
Thần rắn Nagar nhìn tôi
 
Áp Sa Ra. Vũ nữ nàng ơi!
Đổ hết nhạc ngũ âm xuống hồn tôi biển nhớ
Tôi như con chim bay về làm tổ
Ngẩn ngơ hót trên nóc chùa Là Ca
 
Tôi như gió đậu vào tha la
Uống giọt nước mẹ già làm phúc,
Ngỡ tiếng bánh xe bò lụp cụp
Chở hồn tôi trên động cát chiều buông
 
Tương tư chiều. Tương tư quê hương
Rừng đước mọc xanh ngần mặt sóng;
Đêm Đông Hải đáy hàng khơi đưa võng
Bầy cá nược tìm về bến mơ
 
Tương tư chiều. Tình tôi ngẩn ngơ
Dưa hấu mọc dài ra tận biển;
Biển mặn thế, em làm tôi xao xuyến
Lạc trong rừng sú, vẹt mênh mông
 
Tương tư chiều. Nhớ tộ cá rô đồng
Em hút hồn tôi bằng cây rau đắng,
Tôi chìm giữa Trà Vinh chiều lằng lặng
Ước ngày mai “cột chỉ cổ tay”
 
Tương tư chiều. Tương tư chiều nay
Men rượu đầu bờ như lửa đốt
Tôi chạnh lòng muốn thành cây thốt nốt
Rót cho em chút ngọt của đời tôi
 
Tương tư chiếu. Tương tư chiều ơi!
 
HTT
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt

Gởi ai một chút niềm riêng
hồ tĩnh tâm

 
 
muộn cho nhau một ánh rằm
đắp nghiêng đông lạnh nỗi đăm đắm tìm
chạnh lòng bởi gió chẳng im
cành rưng mắt lá ta chìm trong ta
bần thần theo giọt trăng ngà
mộng xanh một đoá người xa lại gần
không dưng thoắt hoá nợ nần
ta vay ai ánh nguyệt ngần ngật say
trải lòng sao hết đêm nay
trăng lay thức ngọn heo may theo về
ngẫm từ KHÁT VỌNG – ĐAM MÊ
rụng rơi hết những lời thề chung chiêng
mượn dòng chữ ấy làm thiêng
tròn đêm tròn cả niềm riêng trăng tròn
 
 
10g35 thứ sáu, 23.11.07
 

alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt

NIỀM TIN
Hồ Tĩnh Tâm


Tan cơn mưa tháng chín
Ngày em đi
Cầu vồng hiện cuối chân trời lung linh bảy màu nhớ thương chờ đợi
Niềm tin
Thắp lửa mặt trời
Đưa tiễn u buồn sầu não bước chân thời gian
Nâng cung đàn ĐỪNG TUYỆT VỌNG TÔI ƠI
Giương buồm cho khát vọng vượt trùng khơi ra biển lớn
Vẫn hẹn một niềm tin yêu thương vô bến vô bờ
Nơi thảm cỏ có con trâu con bò gặm cỏ
Gió trượt dài triền đê
Nắng rẻ quạt xoè ngón tay vẫy từ chân mây núi mờ núi thẩm
Hoài vọng cung đàn Thạch Sanh
Đau lắm nỗi đau quê nhà em gái đau tim không có tiền để mổ
Những cô Tấm dịu hiền quần vo qúa gối
Giọt giọt mồ hôi đồng thấp đồng cao con cua con ốc
Mùi bùn đất nồng nồng thơm giấc ngủ những đêm hè
Chòng chành cánh võng nghiêng  ru ơ ầu ơ con khát sữa mẹ vẫn hằng tin dẫu đã bao lần héo hon mùa gặt hái
Tổ quốc nghèo gầy guộc những bờ tre con chích choè đến hót
Nàng Tô Thị đợi chồng mỏi mòn nơi chiến địa hoá đá mình không hoá đá con tim
Tiếng cu cườm gáy trưa buồn mênh mông xa vời vợi
Chở nắng qua sông bạc trắng cả cánh cò
Lý Lu Là lau lách nôn nao đùng đục xám màu xô ngang kỉ niệm
Nhớ không em ngày tháng chín em đi ướt đẫm dầm dề những cơn mưa nỗi nhớ
Cầu vồng lên như ngực như môi như má đợi em về

Cây birken nơi xứ hồ xứ núi tựa niềm tin em những chiều hoài vọng
Con vịt trời bơi qua em nỗi nhớ một dòng sông
Từ ngôi nhà em tam giác của ba đỉnh yêu thương nhớ nhung hẹn ước
Cắm vững một niềm tin
Em thẩn thờ chiều dạo bước trong thầm thì hoa cỏ
Xứ sở vời xa thao thức một cánh buồm
Tình bạn tình yêu như hạt bụi gió cuốn bay rồi trả lại
Biết để làm gì khi thiếu vắng một tình yêu
Tháng chín em về
Áo bà ba áo dài guốc mộc em lại là em kín đáo một niềm tin thổn thức lịm cơn mê
Bắc chiếc cầu vồng qua niềm tin tháng chín
Nhớ nghe em!
Nhớ nghe em!
NIỀM TIN!

HTT
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt
 

VỀ MỘT NỤ CƯỜI ĐẮM ĐUỐI
Hồ Tĩnh Tâm

 
Em đẹp làm chi để cho tôi khổ
Em cười làm chi để cho tôi nhớ
Suốt mùa mưa, suốt cả mùa khô
Suốt cả đời tôi trăn trở.
 
Nụ cười em lấp lánh trắng hồn tôi
Tôi lạc đường trong mắt em sâu thẳm
Em hãy nói lời yêu thương đằm thắm
Cho tim tôi lấp lánh ánh mặt trời.
 
Tôi là tù binh trong trái tim em
Em cứ việc xét xử tôi theo luật lệ
Nhưng có điều em hãy nghĩ mà xem
Tình yêu tôi đã nhiều lần đổ bể.
 
Tóc em bay làm hồn tôi bối rối
Mắt em nhìn làm hồn tôi ngất ngây
Tôi qùy dưới chân em xưng tội
Tôi phải lòng em ngất ngây.
 
Em hiền lành, em đẹp lắm em ơi
Nhưng em đừng nhìn tôi như thế
Cuộc đời vốn thăng trầm dâu bể
Gặp em rồi thuyền tình tôi chơi vơi.
 
Xa ri ka keo, chim sáo thuộc về ai?
Tôi hát nụ cười Bayon làm chi nữa.
Cho tôi ngược dòng Tông Lê Sáp
Về Ăng Co cầu nguyện một lần thôi!
 
Em hiền lành đẹp tựa đóa đơm boong
Tôi hình hài biến thành cây thốt nốt
Thành nhịp điệu lâm thôn, ôn xa lanh ai vậy
Tôi lên chùa xuống tóc ôn ơi ôn!
 
HTT
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt
 
alt

NGHE TIẾNG

VnVista I-Shine
© http://vnvista.com