Bản in của bài viết

Click vào đây để xem bài viết này ở định dạng ban đầu

ungbuouhungviet01's Blog

Nguyen nhan benh ung thu da day va nhung mong doi

Một nghiên cứu mở rộng kiểm tra chế độ ăn uống sau khi chẩn đoán và sự sống còn của phụ nữ ghi danh vào Nurses Health Study. Trong nghiên cứu này, 1.982 phụ nữ bị ung thư vú được theo dõi trung bình là 13 năm.


1237 của những phụ nữ bị ung thư vú đã di căn không (128 của những người phụ nữ đã chết trong thời gian nghiên cứu). Phụ nữ trong nhóm này  biểu hiện ung thư dạ dày đã ăn một lượng lớn gia cầm, tổng số protein và axit béo omega-3 (từ các loại dầu có trong cá) có nguy cơ đáng kể về mặt thống kê dưới của tử vong so với những người ăn một lượng ít nhất của các loại thực phẩm và chất dinh dưỡng. Những phụ nữ ăn nhiều chất xơ, cá, và rau quả cũng có nguy cơ thấp hơn về cái chết của hơn những phụ nữ ăn ít các thực phẩm và chất dinh dưỡng. Đối với những phụ nữ không có di căn ung thư, một tỷ lệ đáng kể về mặt thống kê tử vong cao đã được báo cáo trong số những người ăn một lượng lớn các loại dầu hydro hóa được tìm thấy trong các loại thực phẩm nướng được chế biến (18: 2 axit béo trans).

Sự kết hợp của chế độ ăn uống với sự sống còn là khác nhau cho 745 phụ nữ bị ung thư đã di căn (250 của những người phụ nữ đã chết trong thời gian nghiên cứu). Những phụ nữ ăn một lượng lớn các sản phẩm sữa có hàm lượng canxi trong chế độ ăn của họ có nguy cơ thấp hơn đáng kể tử vong. Ngoài ra, phụ nữ có khối u di căn người ăn protein hơn, nói chung, có một nguy cơ thấp hơn của cái chết. Đối với cả hai nhóm người sống sót sau ung thư, ít hoặc không gắn với nguy cơ tử vong đã được nhìn thấy các loại trái cây, ngũ cốc, thịt đỏ, hoặc bổ sung vitamin.

Một thứ hai, nghiên cứu nhỏ hơn sau 374 phụ nữ bị ung thư vú giai đoạn sớm (phụ nữ không có các khối u di căn ra ngoài các hạch bạch huyết xung quanh vú) cho tám nguyên nhân bệnh ung thư dạ dày  đến mười năm. Nghiên cứu này báo cáo rằng phụ nữ sau mãn kinh ăn nhiều rau và những người có nhiều vitamin C từ thực phẩm có nguy cơ thấp hơn của cái chết.

Hiệu quả của chế độ ăn uống sau khi chẩn đoán bệnh ung thư là một lĩnh vực nghiên cứu đòi hỏi nghiên cứu nhiều hơn nữa. Kết quả của hai nghiên cứu này chỉ là sơ bộ nhưng họ dù sao cũng đáng khích lệ. Một số thực phẩm hoặc các chất dinh dưỡng có liên quan đến nhiều như giảm 50% nguy cơ tử vong. Nếu những kết quả này chứng minh là đúng, họ có thể là khá quan trọng, như chế độ ăn uống sau khi chẩn đoán là một cái gì đó mà trong đó những người sống sót ung thư có một số kiểm soát.

Liệu có đủ bằng chứng cho một người sống sót ung thư vú để mong đợi để giảm nguy cơ bà về cái chết bằng cách ăn nhiều hơn hoặc ít hơn của một số loại thực phẩm?

Nhiều nghiên cứu là cần thiết trước khi khuyến nghị cho chế độ ăn cho người sống sót ung thư vú có thể được thực hiện. Điều quan trọng là nhận ra rằng những nghiên cứu này chỉ mới báo cáo các hiệp hội. Các khía cạnh của ăn kiêng sẽ có tích cực hay tiêu cực ảnh hưởng đến tỉ lệ sống có thể đã có hiệu lực của họ bằng hành động một mình. Hoặc, các loại thực phẩm có thể là đại diện của phong cách sống của phụ nữ nói chung. Ví dụ tốt từ các nghiên cứu trên là những thay đổi trong nguy cơ tử vong báo cáo với mức tiêu thụ cao nhất của gia cầm tai mũi họng  (gắn liền với rủi ro thấp hơn) và hydro hóa dầu (kèm với nguy cơ cao hơn).


VnVista I-Shine
© http://vnvista.com