Bản in của bài viết

Click vào đây để xem bài viết này ở định dạng ban đầu

MÙA CHIM LÀM TỔ

NGUYỄN DU VÀ NHỮNG NỖI ĐAU NHÂN THẾ

Không biết từ lúc nào, người ta thường tự an ủi mình: ở hiền gặp lành và tin vào nó với niềm kỳ vọng lớn lao. Niềm tin ấy lấp đầy nỗi đau, xoa dịu mất mát, dỡ bỏ mọi mặc cảm; Niềm tin ấy đem lại niềm vui sống cho con người. Người đời đã luôn tin vào điều “thần bí diệu kỳ” đó. Thơ ca cũng như nghệ thuật nói chung đều bắt nguồn từ tấm lòng và tài năng của người nghệ sĩ. Với trái tim tràn đầy tình yêu thương, cùng tài năng vĩ đại của mình, Nguyễn Du đã luôn đi tìm trong mọi ngõ hẻm của cuộc đời những dư ba của tình người thống thiết. Gom góp, thu lượm rồi đem trả lại cho cõi nhân gian. Suốt đời đóng vai một người “sưu tầm” cao thượng và lấy đó làm niềm hạnh phúc, nhà thơ đã sống và khát vọng, dằn vặt và ước mơ, tranh đấu để gìn giữ những giá trị nhân văn cao cả. Bởi nhà thơ tự biết rằng: xã hội ấy, đời sống ấy thật khó có cơ hội cho những gì tốt đẹp nảy sinh. Cho nên, các nhân vật trong thơ ông luôn cháy bỏng về một hạnh phúc dẫu hết sức giản đơn, một khát khao bình lặng trong cõi lòng giản dị của mình.
Điểm lại những tác phẩm của Nguyễn Du, người ta thấy dường như cuộc đời nhân vật của ông là một hành trình tìm về với chất người đích thực. Trong hành trình ấy, con người đã phải trả giá bằng mồ hôi, bằng nhục nhã, thậm chí cả bằng máu. Cách chúng ta hơn hai thế kỷ, đong đầy trên những trang viết của ông vẫn là những vần thơ đẫm đầy máu và nước mắt, sáng long lanh và sáng đến đau buốt cả lòng người.
Vươn lên trong hạn định không gian và thời gian, Tố Như đã hỏi cả nhân loại mai sau một câu nhức nhối:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
(Độc Tiểu Thanh ký)
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ ai người khóc Tố Như)
Nguyễn Du đã hỏi tất cả, hỏi chúng ta, hỏi từng vòng quay của lịch sử, hỏi đến cả ngàn sau. Vị mặn của nước mắt, màu đỏ của máu chảy tràn trong “Văn tế thập loại chúng sinh”. Tố Như cất lên tiếng khóc ấy cho tất cả những số phận bi thảm của con người. Não nùng biết mấy những câu thơ đầy nước mắt:
“Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng”.
Tố Như đang sống trong cõi sống mà dường như lại đã chìm hẳn vào cõi chết để tìm đến chia sẻ với trăm ngàn oan hồn bạc mệnh:
“Sống đã chịu một đời phiền não
Chết lại nhờ hớp cháo lá đa”.
Nỗi đau tích tụ, nấc nghẹn trong tim. Trước cái vô hạn của thời gian xoay chuyển, trước cái lạnh lẽo của đời người vô thuỷ vô chung... Tiếng khóc ấy chảy theo thời gian, theo đoàn cô hồn khổ đau ấy đến tận ngày nay để làm nhức nhối bao người về một vết thương đã lành mà vẫn còn đau âm ỉ.
Tấm lòng yêu thương và cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nhiều kiếp người đau khổ, bất hạnh trong xã hội. Nhà thơ đặc biệt hướng về những người phụ nữ tài sắc bị vùi dập. Tất cả những bài thơ viết về những người phụ nữ có tài sắc mà bạc mệnh đều có một giọng thơ xót thương, thông cảm chân thành. Hơn một lần Tố Như đã thống thiết nỗi đau khổ ấy cho những con người bạc mệnh:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
(Truyện Kiều)
“Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu”.
(Văn chiêu hồn)
Từ một người con gái tài hoa bị cuộc đời vùi dập, trong cơn thương hải tang điền trong “Độc tiểu Thanh ký”, “Long thành cầm giả ca” đến hạng người có thể nói là bị coi rẻ, bị chà đạp nhất đó là những cô gái lầu xanh, tất cả đều được Nguyễn Du yêu thương, xót xa và đồng cảm. Cuộc sống của họ là một chuỗi ngày “thổ ra nước mắt”. Cuộc đời của họ là một nghịch cảnh trớ trêu.
Ít có tác phẩm nào ngay từ khi ra đời cho đến mãi mãi về sau vẫn được nhân dân cả nước yêu chuộng như Truyện Kiều. Không phải chỉ yêu thích đơn thuần mà đây còn là nơi gửi gắm niềm tin, niềm tin về tình yêu và cuộc sống. Tác phẩm này biểu hiện cao nhất của tình thương và nỗi đau trong trái tim Tố Như. Tác giả đã thực sự hoá thân vào Kiều để làm sống lại một cách rất sáng tạo và nhân đạo tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân một cách trọn vẹn. Nỗi đau trong cuộc đời Kiều không phải là một bi kịch mà là một chuỗi những bi kịch nối tiếp nhau, mỗi lần nàng cố vươn lên để gọi là được sống thì lại một lần bị dìm xuống sâu hơn nữa. Đau khổ, nặng nề biết bao, đó là tiếng khóc của cả một đời người, của cả một cõi vĩnh hằng.
Cùng với Văn chiêu hồn và Truyện Kiều, tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du lại thêm một lần nữa cho chúng ta thấy rõ ông là một nhà thơ có tấm lòng nhân đạo cao quý. Tư tưởng nhân đạo của nhà thơ có một quá trình hình thành và phát triển. Ông đã đi từ những vấn đề của cá nhân đến những vấn đề có ý nghĩa xã hội. Tư tưởng nhân đạo của nhà thơ biểu hiện ở hai khía cạnh: Sự phê phán, lòng căm ghét của ông đối với bọn quan lại phong kiến bất tài, không có đạo đức; tấm lòng ưu ái, thông cảm sâu sắc của tác giả đối với những con người bất hạnh trong xã hội.
Những mảnh đời, những thân phận trong tác phẩm Nguyễn Du thật khó tìm được một bến đỗ bình yên. Cuộc đời dẫu có hàn gắn, chắp vá, nhưng niềm hy vọng mong manh bé nhỏ của những con người sống hết khả năng mình bị thời gian tàn nhẫn xoá nhoà. Người đời trả giá vì sự gian ác của mình đã đành, nhân vật của Nguyễn Du còn phải trả giá cho cả nhân cách tốt đẹp của mình mà không thể cưỡng lại được. Nghịch lý ư? Đó là quy luật, một quy luật ngược đời chỉ có ở cái xã hội mà Nguyễn Du đang sống. Sự ghẻ lạnh của lòng người, sự hư vô của cuộc đời, làm sao cái đẹp, cái lương thiện được nuôi dưỡng. Quan niệm “ở hiền gặp lành” trong dân gian, liều thuốc an thần mà bấy lâu nay con người tự tạo ra cho mình đã hoàn toàn vô hiệu. Với xã hội này, niềm tin xưa cũ ấy đã diệt vong, hoặc có còn thì cũng chỉ là rào chắn kiềm toả con người. Sống theo nó, vô hình người ta đã tiêu diệt đi ở mình khả năng tự vệ, khả năng đấu tranh, để tự đẩy mình vào cái chết đau đớn một khi xã hội còn đầy rẫy những bất công, khi các nguyên tắc sống nhân đạo đã bị xoá mờ.
Với ngòi bút tinh tế và sắc sảo, những mâu thuẫn nội tại của từng nhân vật đã được Nguyễn Du khắc hoạ chân thực đến từng chi tiết. Nguyễn Du đến với nhân dân bao đời nay trong cả một bầu tâm sự cảm thông sâu sắc. Đó là một khát vọng của nhân cách tạo nên trong sóng gió của đời, thấm nhuần bản chất của nhân dân, của dân tộc. Đó cũng là một con người nhân bản, tự phần sâu kín nhất, đau nỗi đau bãi bể nương dâu mà đòi lên án chế độ bạo tàn, đòi cho con người có hạnh phúc, tình yêu, tự do và công lý. Nguyễn Du tha thiết mong cho con người được sống hạnh phúc, được tôn trọng, và ông cực lực tố cáo tất cả những gì là bất công, ngang trái chà đạp con người.

bởi: Guest_chuot_* trong May 2 2010, 02:47 PM

bạn ui truyện Kiều là thơ chữ Nôm chứ không phải chữ Hán đâu...hjx..

VnVista I-Shine
© http://vnvista.com