(Đọc lại “Sông núi Điện Biên”, của Trần Lê Văn)
Ra mắt năm 1979, tập bút ký “Sông núi Điện Biên” của Trần Lê Văn như dẫn bạn đọc lạc vào một thế giới khác mà ở đó người đọc phải trằn trọc suy ngẫm mới thấy hết được vẻ đẹp bình dị, kỳ bí của vùng đất Tây Bắc dù trước đó đã từng có những bài viết về vùng đất địa đầu Tây Bắc này.
Năm 2000, “Sông núi Điện Biên” được tái bản, cuốn cẩm nang của những người ham thích cái đẹp quay trở lại bằng sự cuốn hút lặng lẽ. Tập sách gồm 26 bài viết với dung lượng 500 trang, lịch sử của mảnh đất Điện Biên được cô đặc và hấp dẫn đến bất ngờ. Trần Lê Văn đưa người đọc đi từ thuở hồng hoang cho đến lịch sử hiện đại, từ phong tục tập quán cổ xưa của đồng bào dân tộc thiểu số cho đến ngày Điện Biên đang trên bước đường xây dựng đời sống mới. Bằng cách sắp đặt có dụng ý, lối so sánh chắt lọc đã tạo nên một thế giới hư hư thực thực của vùng đất ẩn chứa nhiều huyền thoại này. Để có được những trang viết đầy tâm huyết như thế, Trần Lê Văn đã thực sự trở thành người con của núi rừng Tây Bắc.
Cấu trúc của tập sách thật khó mà có một cách gọi hợp lý, tất cả các bài viết được sắp đặt trong một sự tổng hòa. Quá khứ và hiện tại cứ sóng đôi xen kẽ nhau. Lật giở từng trang, từng trang, đến phút cuối cùng vẫn còn cảm thấy thòm thèm và tiếc nuối. Một thành công nữa của tác giả ở tập sách này là nghệ thuật sử dụng ngôn từ, ông dùng ngôn ngữ trần thuật là chủ yếu. Mà cũng lạ, kể chuyện đời xưa hay chuyện đời nay, yếu tố trần thuật mà Trần Lê Văn sử dụng đều trở nên sống động lạ thường. Ta có cảm giác dường như ông vừa mới nhìn thấy tận mắt và kể lại cho chúng ta nghe vậy. Này là buổi sơ khai của loài người, này là những lát cắt của văn hóa dân gian, này là tiếng súng nổ vang trời đang ngắm thẳng vào giặc Pháp... Tất cả hiện lên thật tươi mới, roi rói sức mạnh thời đại và tinh thần lạc quan của cuộc sống đang ngày đêm cuộn chảy.
Bút pháp ấy đã tạo nên một Trần Lê Văn trầm mặc, sâu lắng đầy sáng tạo. Sáng tạo trong sự giản dị của câu chữ, của những hình ảnh, chi tiết rất đời thường. “Một vùng trời” tác giả kể về vùng trời Hà Nội, cảm giác lâng lâng khi ngồi trong máy bay, rồi cuối cùng là khoảng trời của Điện Biên khi máy bay hạ cánh. Người đọc thật bất ngờ và thích thú khi nghe tiếng gọi thảng thốt đầy yêu thương của một em bé người Thái trên máy bay: “ếm ơi”. Cô theo mẹ xuống thăm người thân ở Hà Nội và chuyến về mới đi “xe bin” (xe bay) lần này là lần đầu. Quãng đường xa ngại ấy giờ đây như được rút ngắn lại bởi một câu nói đầy hàm ý của tác giả: “Điện Biên là ngoại ô của Hà Nội”.
Nếu “Một vùng trời” được tác giả thể hiện bằng bút pháp tả thực, thì đến “Một vùng đất”, Trần Lê Văn sử dụng nghệ thuật sóng đôi giữa hiện tại và quá khứ để tạo nên một xúc cảm sâu sắc với từng mảnh đất, từng cái tên trong thung lũng Mường Thanh. Tài tình ở chỗ ông đã kết hợp khéo léo giữa quá khứ và hiện tại, giữa lịch sử và huyền thoại để tạo nên một không gian xen chéo hiện thực – hư ảo đầy mê hoặc. Và với “Một vùng thần thoại – Một vùng lịch sử” thì người đọc đã thấy được sự cuốn hút thực sự với mảnh đất này. Tôi dám chắc, nhiều người sinh ra và trưởng thành tại nơi đây nếu có xem qua tác phẩm hẳn sẽ hết sức bất ngờ, bởi lẽ Điện Biên trong quá trình hình thành và phát triển đã mang trong mình một kho tàng phong phú và đặc sắc về đời sống văn hóa. Trần Lê Văn cứ như con ong mải miết kiếm tìm và dâng trả cho đời những gì ngọt ngào nhất của sắc hương cuộc sống. Không những thế, biết bao huyền thoại đã được ông tìm về tới tận nơi khởi nguồn và cũng còn biết bao huyền thoại được ông gợi mở để thế hệ sau tiếp nối, gìn giữ và phát triển. Sự tích “Quả bầu mẹ” gắn với cái tên Tẩu Pung (xã Nà Tấu); chuyện “Dây leo khau cát” gắn với vẻ đẹp hồ U Va... là những bằng chứng lịch sử của nền văn hóa lâu đời nơi đây. Và còn rất nhiều những cái tên gợi cho người đọc sự liên tưởng về mối tương quan với các nền văn hóa khác.
Tâm điểm của “Sông núi Điện Biên” được tác giả khơi lên bằng cả máu thịt của mình với chiến thắng Điện Biên Phủ là mốc son bằng vàng trong lịch sử nước nhà. Những áng văn: “Thăm đồi A1”, “Đồi Him Lam, bản Him Lam”, “Quanh cái hầm của viên tướng thực dân bại trận”, “Mường Phăng và đồi Đại tướng”... với lối viết trầm mặc, giản dị của mình, Trần Lê Văn đã khắc sâu được sự đối lập gay gắt giữa hai đầu chiến tuyến. Thể loại bút ký văn học là một trợ thủ đắc lực cho tác giả lúc này. Dòng chảy của tâm tư, niềm hứng khởi về một ngày mai chiến thắng trong lòng người chiến sỹ; nỗi ô nhục và hốt hoảng của kẻ thù trước ngày bại trận đầy ăm ắp trong từng trang viết. Niềm tự hào dân tộc chảy dần trong từng thớ thịt của người đọc lúc nào không hay. Trong “Thăm đồi A1” tác giả kết thúc bằng một hình ảnh: “Đồi A1, Đồi Đồn tây, Đồi Lạng Chượng cũng chỉ là một quả đồi, nhưng một quả đồi cũng như một con người, có nhiều chặng đời khác nhau. Quả đồi ấy mỗi lần đổi tên là một lần thay đổi số phận... Chỉ khi được mang tên A1 với ý nghĩa chiến thắng, quả đồi mới được chiếu trên mình nó một ánh hào quang bất diệt. Người Thái, người Xá, người Mèo, người Kinh... mỗi lần đến thăm A1 là đến thăm một quả đồi chiến công, một quả đồi đoàn kết chiến đấu, một quả đồi tình nghĩa thương yêu”. Như thế thì còn gì có thể nói thêm đây, cả NHÂN – TRÍ – DŨNG đã được thể hiện một cách hết sức rõ ràng. “Thăm thành Bản Phủ”, “Nhà bảo tàng”... là một thế giới có thật, thế giới của hiện tại. Bằng tài năng của mình, Trần Lê Văn đã khiến cho mỗi người tham quan không thể bình ổn nội tâm. Mỗi hiện vật là một thực thể sống, tồn tại và hiện hữu qua lăng kính cảm xúc mọi người.
“Lúa Tiền Phong bên đồi A1”, “Từ chiến trường đến nông trường”, “Pá Khoang, nguồn nước mới”... là niềm hào sảng khôn xiết của Trần Lê Văn đối với mảnh đất Điện Biên đang đổi mới từng ngày. Sự hứng khởi ấy chảy tràn trong từng câu, từng chữ, phía sau cuộc chiến đấu giữ gìn quê hương là một cuộc chiến mới: chiến đấu với đói nghèo và lạc hậu. Niềm tin về một ngày mai tươi sáng là một dấu ấn không thể phai mờ trong những bài viết này. Hình ảnh của những anh bộ đội trong thời bình được xây dựng bằng một hình tượng mới, hình tượng của những người nông dân, công nhân đang mê mải và hăng say lao động nhằm cải tạo mảnh đất Điện Biên ngày càng ấm no và hạnh phúc. Những nhân vật ấy được Trần Lê Văn miêu tả như những người nghệ sỹ. Họ đến với “Rừng trúc” (Pá Khoang, nguồn nước mới) bằng niềm trân trọng vẻ đẹp của tự nhiên. Trên cánh đồng nóng bỏng hơi thuốc súng, những người lính “đánh giặc và gieo trồng, đánh giặc để gieo trồng” đấy là truyền thống nghìn đời của dân tộc ta.
Với “Sông núi Điện Biên”, Trần Lê Văn đã gắn kết tâm hồn của mọi người trong một thể thống nhất, cảm cái cảm của ông, yêu cái yêu thích của ông. Đặc biệt hơn, một khi đã sống với “Sông núi Điện Biên”, ta không thể tự bằng lòng với những gì đã có. “Với tinh thần đoàn kết, cả nước một lòng như vậy; với ý chí quyết tâm của ông cha biểu hiện ngay từ tên đất: Điện Biên (Biên giới vững vàng); với ý chí quyết tâm của Đảng: “Chúng ta chỉ được thắng, không được bại”, toàn dân ta có một niềm tin sắt đá: dù gặp gian nguy tới đâu, chúng ta cũng sẽ thắng như đã thắng. Và: ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM NÀY VĨNH VIỄN ĐIỆN BIÊN”.
(1) – Tiêu đề bài viết số thứ tự 26 trong tập bút ký “Sông núi Điện Biên” của tác giả Trần Lê Văn.[b]
VnVista I-Shine
© http://vnvista.com