Thông tin cá nhân
|
Các bài viết trong August 2006
Aug 20 2006, 01:41 PM
Bởi: Biển Ngàn Thu Phẳng Lặn
Phải cảm ơn ai đây, trái đất, vũ trụ hay thượng đế, ông trời và tổ tiên đã chọn nơi này cho ta có một đất nước quê hương mỗi năm có bốn mùa rõ rệt, nhất là Hà Nội, nắng thì thật nắng, thu thì thật thu và mùa đông là niềm trữ tình đầy hoài niệm đời người, cả khi ta đang ở giữa làn gió tái tê thổi qua mái nhà ta hay ta lang bạt về miền nào hun hút chân trời góc bể... Ngay từ hôm có sợi mưa lắc rắc báo tin mùa heo may cho con rơi xuất hiện, lúc có ngày lễ Toussaints, nay gọi là lễ Các Thánh vào tháng 10 âm lịch tức tháng 11 của lịch Grêgoa tứ Công Nguyên thông dụng, ta đã sửa soạn tâm hồn để đón thêm một mùa đông xếp lên thành tuổi, ta biết có người khắc khoải đợi chờ những ngày và những đêm kỳ lạ, nói như nhà thơ say Lưu Trọng Lư: Yêu hết một mùa đông Nhìn nhau mà chẳng nói... Ðàn sếu đã xếp hình mũi tên mải miết về phương nam gió ấm, ta không sếu, ta đợi bếp lửa hồng đêm ù ù những cây kim cắm vào da thịt để lật bắp ngô non nướng trong lòng bàn tay, rồi sáng ra, đi chọn lấy hàng phở quen thuộc, nóng bỏng lưỡi và cay giàn giụa lệ đời ngon ngọt sau đó đã có hàng cà phê thơm nức nơi ngã tư, có những hạt lá me vàng rơi rụng vào vai áo và có khi nó cũng biết uống cùng ta, nằm gọn trong chiếc tách màu nâu lìm lịm một vị đắng đê mê. Ta đang ăn mùa đông, uống mùa đông, ta giơ tay ra nhận lá thư từ trời gửi về màu đỏ lá bàng hay màu vàng cây cơm nguội, lá thư là tín sứ, là nhịp đàn thăng hoa trong không gian tìm người tri âm tri kỷ, chẳng thế sao những người trai người gái cứ tìm nhau vào dịp này để lồng hai chiếc nhẫn tân hôn trước bàn thờ đại diện cho thiên đàng. Mùa đông đất Bắc, gió lang thang trên những cánh đồng đầy gốc rạ, trẻ bé nào tha thẩn đi tìm câu con công cống hay hái cây rau khúc về làm bữa bánh thơm thảo làng xa, vườn cải sớm đã vàng một loài hoa nắng màu hoàng yến có người con gái tùm hum chiếc khăn vuông vừa đi vừa làm cơn mưa nhỏ từ hai chiếc bình tới gọi là ô doà, càng gió đôi má càng au đỏ như hai đoá hoa lựu được mùa, làm chết mắt anh trai làng thầm thương trộm nhớ đến các đấng thánh thần cũng chỉ đành tha tội mà thôi... Thành phố nơi ta nương thân lại khác. Gió luẩn quẩn trên tầng mái cổ, ra đến Hồ Gơm thì mới có liễu đón và sóng chào. Mặt hồ xao động trong lặng lẽ, tóc xanh, cây mềm đung đưa như vạn cổ đã thường xanh và gió nghìn đời rong chơi không mệt mỏi làm một đối cực còn cực kia là nồng ấm đôi bàn tay xoắn xuýt vào nhau, đan cài muôn lời không thành tiếng... Mùa đông Hà Nội, đến một cột đèn cũng thành kỷ niệm đời người, một tiếng rao khuya cũng rền vang tâm tưởng... thoáng qua một nỗi nhớ hanh vàng màu nắng mật ong, thoáng qua một mặt người soi nhẹ lớt lời tình có từ thuở ông Adam và bà Eva trong vườn địa đàng hồi hộp... Con sông Hồng ngoài kia sau mùa lũ điên cuồng đã uể oải về xuôi có phần mệt mỏi như ngời đàn bà sau hôm sinh nở, nếu những con gió bấc có lồng lên quằn quại thì bóng cầu Thăng Long, Long Biên, Chơng Dơng cũng phải mai hay ngày kia mới xuôi đợc đến Thái Bình, cửa biển, đồng muối. Ba Lạt mà mùa này ở đấy cây rơm đã xuất hiện như cây nấm vàng mơ, hạt thóc đã rì rầm trong bao, trong cót, người đi lễ chuẩn bị bộ áo quần mới mua nơi chợ huyện, chợ tỉnh còn thơm hơng vải thay cho tấm áo đẫm mồ hôi đồng muối chang chang 6 tháng trước... Hồ Tây mênh mông, đúng là Dâm Ðàm, là mù sương, là lụa dăng, hồi chuông thu không chẳng đủ sức để vượt qua ngàn con sóng, chỉ có sương cho tiếng gõ mạn thuyền của ngư dân đùng đục trầm buồn, khiến con chép vàng Hồ Tây ngơ ngẩn, có nên nghe? Chiều xuống nhanh, sương xuống (hay sương lên) còn nhanh hơn nữa, không ai có thể nhìn thấy con gọng vó, con nhện nước nào búng mình, tạo thành chiếc vòng sóng bé tẻo tèo teo... chỉ có mờ mờ như tấm ảnh thiếu sáng của người nghệ sĩ cố tình làm nó nhạt nhoà nói một ý thầm mộng mị mắt người xem, rằng mùa đông đã dâng đầy để ai cũng phải khát khao một không khí có ánh đèn trong căn phòng như chiếc tổ chim sực nức hơi ấm của chim mẹ ủ trứng, chim bố gù gù, chim con lích tích... Có bước chân ai đi trong phố cổ, giữa hai bên phố nhà đã cửa đóng then cài, chỉ có ánh sáng lọt qua khe cửa, nằm chéo mặt đường như sợi chỉ dệt bằng kim tuyến, khiến người không nỡ bước qua rồi sững lại, rồi thành chiếc cây đóng rễ để lắng một khúc dương cầm có câu "ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng" hay "xe chỉ luồn kim...". Mùa đông Hà Nội, những triều đại vàng son đã đi qua, con rồng đá nơi sân điện Kính Thiên còn đó, tiếng súng thần công từ pháo đài làng Láng đã vang vào tai nó, Thăng Long không còn là đất "phi chiến địa", khỏi lửa đã tơi bời, bao nhiêu cây sấu, cây me ngả thân làm vật chướng ngại cho anh tự vệ nấp mình mà phóng bom ba càng... và cũng con rồng đá ấy không thể xuống hầm tránh bom B52, nhưng nó là bất tử, nó là hồn Thăng Long, hồn Hà Nội, vượt qua lửa bỏng để hồi sinh. Mùa đông năm 1947 ấy, vườn hoa vô danh gần toà án đã thành mộ liệt sĩ. Gió vi vút cầu hồn trên mái cây long não, mùa đông có vàng chút ít còn hồn người đã thành hồn nước non, chắc về nhận niềm cúi đầu mặc niệm trên đờng Bắc Sơn vườn hồng tơi thắm mà mỗi mùa đông, rặng đào hoa sớm lại tỏ mở nỗi lòng tươi như tương lai. Mùa đông năm 1972 nữa, hơn 250 ngời hy sinh cùng Khâm Thiên vào đúng 24 giờ sau lễ Thiên Chúa Giáng Sinh, hồi chuông thánh thiện còn chưa tắt hẳn thì tội ác đã hoành hành. Lễ Thiên Chúa giáng sinh đã đến, nhà ai có bữa khuya đầy hoan lạc vị đời, nhà ai còn lận đận nơi xóm ô, hay ngõ nhỏ đang lo toan cho mùa đông mang cái Tết về không phải long đong... Hình như mùa đông nói rằng con ngời cần xích lại gần lại bên nhau cho hơi ấm lan truyền, cho tâm tư giao hoà gắn bó, cho nỗi niềm được đầy vơi san sẻ cùng nhau. Ðã lâu lắm không ai nhìn thấy bóng sâm cầm, nhưng cây bàng phố Quán Thánh, Tràng Thi, cây cơm nguội ở Bờ Hồ và Lý Thường Kiệt thì vẫn báo tin bằng lá đổ, và món ốc nóng quà đêm, mà cửa hàng khăn áo phố Triệu Việt Vơng, Mai Hắc Ðế cứ dăng mắc chờ được về với mọi hình hài... Người bạn phía trời Nam chắc đang nhớ về gió liễu mà sương hồ Hà Nội, nhớ một ấm trà thơm quây quần trên sàn nhà rải chiếc thảm cói đơn sơ, không cần đến những chiếc ghế tân kỳ to đùng, cũng chẳng có ổ rơm êm như nhung, đung đưa như con tàu lướt sóng... Mùa đông Hà Nội là tình nhau trao đổi chứ không cần yến tiệc mới say nhau. Người con gái ấy vừa lấy chồng, mùa đông này không nữa của tình ta. Người thiếu phụ ấy phải sang ngang lần nữa, người nhìn ta mà có một bầu trời sương mờ mù mịt ẩn chứa vào lời. Giá ta thành con sếu theo đàn về phương Nam nắng ấm, ta mang ngời theo, tìm cho người tổ mới có nắng ngọt và gió lành, vượt qua nỗi đông bắc tái tê... Mùa đông cứ thức lên hoài niệm... nhưng dù sao mùa đông này cũng vừa khép lại một nỗi niềm để mở ra một trang kỳ ảo mới: Thiên niên kỷ mới: Con người sẽ vượt qua được nhiều nỗi bi thương bước vào xuân hàm tiếu hoa đào. Gió mặc gió. Ta đi qua gió để tới mùa ấm áp. Và ta xếp mùa đông lại như xếp từng lá thư tình một thuở chẳng thể mờ phai, còn bây giờ, ta đi đến với muôn lòng đón đợi tiếng tri âm từ xung quanh toả ra và từ phương trời xa tít gửi về... Và ta xin nói với người: Mùa đông Hà Nội là của riêng ta và cũng của cả người đấy, tình ơi...!!!
Aug 20 2006, 01:19 PM
Bởi: Biển Ngàn Thu Phẳng Lặn
Hoa sữa không biết được du nhập vào Hà Nội từ bao giờ, cây cao, dáng đẹp, thân mốc thếch, cao tới gần 20m, cành đan xen khúc khuỷu. Khác với nhiều loại cây, lá cây hoa sữa phát triển từng đốt, mỗi đốt thường xoè ra từ 6-7 lá, giống như lá cây ngũ gia bì nhưng to hơn. Từ những đốt cành nảy ra những nhánh nhỏ vươn về mọi phía, làm cho tán cây luôn xanh mướt, bấm vào cành non thấy chảy ra chất nhựa có màu trắng như sữa, phải chăng vì thế mà dân gian gọi là cây sữa. Cùng với hoa dạ lan, nhài, trà mi, nguyệt quế... hương hoa sữa chỉ thơm về đêm. Cây hoa sữa không có mùa trút lá, chỉ lác đác rụng lá vàng, nên suốt năm cây luôn xanh tốt. Hoa sữa nở vào độ cuối thu đầu đông, những cụm hoa nhỏ xíu chen chúc từng đám mầu trắng phớt. Ðộ hoa nở, những ngày lặng gió, không gian xung quanh như được ướp bằng mùi hương hắc thơm ngào ngạt, một mùi hương như mơ như thực, bởi hoa nở trên cao không nhìn thấy, còn cái mùi hương nồng nàn quyến rũ ấy cứ lan xa, dưới gốc cây rơi rắc những chấm hoa nho nhỏ, như tấm voan mỏng mịn màng còn phảng phất mùi hương. Nhưng không hiểu sao, hễ nói về hoa sữa, người ta vẫn nhớ về con đường Nguyễn Du, nơi ấy có không gian tĩnh lặng, có hồ nước lung linh khiêm nhường mà thơ mộng. Những đêm đầu đông, trong sương giăng lành lạnh, ngồi bên bồ Thiền Quang dù ở bờ bên kia, vẫn ngửi thấy mùi hoa sữa. Nhiều lứa đôi thường đến đây dạo bước dưới hàng cây sữa, phải chăng bởi hoa sữa thơ mộng dễ khắc vào nỗi nhớ kỷ niệm tình yêu? Ngược đường Thuỵ Khê theo tàu điện về chợ Bưởi ngày xưa cũng có nhiều cây hoa sữa. Mới cách đây gần 30 năm, ngồi trên toa xe điện vào những đêm đông, suốt đoạn đường vẫn ngửi thấy hương sữa, giờ đây đoạn đường này chỉ còn lại 5 cây, dọc đường hầu hết được trồng dâu da xoan. Kể ra, cây dâu da xoan cũng đẹp, rất dễ trồng, lá xanh mướt, mùa xuân, mùa hè hoa nở trắng có mùi thơm dịu nhẹ, dưới nắng vàng những chùm quả cũng lung linh đỏ rực. Nhưng cây rất thấp, không thể nào sánh được với hoa sữa. Vì sao cây hoa sữa ở đoạn này lại ít đi? Tìm hiểu thì được biết một số người thiếu ý thức thấy cây sữa mọc trước nhà, hoa toả hương họ chê là hắc, nên tìm cách hạ đi. Mấy năm gần đây, chừng như người ta cũng bắt đầu thấy được giá trị của hình tượng hương hoa sữa với phố phường Hà Nội, nên một số phố được trồng thêm rất nhiều cây sữa. Hoa sữa trên đường phố Hà Nội từ lâu đã đi vào kỷ niệm của người Thủ đô và những khách xa về thăm Hà Nội. Hoa sữa cũng đi vào nhạc, vào thơ, đã làm xốn xang bao tâm hồn trẻ, ai không khỏi bâng khuâng khi nghe câu hát "Em ơi Hà Nội phó, ta còn em mùi hoàng lan, ta còn em mùi hoa sữa"... Hương hoa sữa ở đây như gắn với tình yêu và phố phường Hà Nội. Rồi "hoa sữa thôi rơi, em bên tôi những chiều tan lớp" như nỗi niềm luyến tiếc mùa hoa sữa đã qua gợi bao kỷ niệm. Và nhiều lắm, có biết bao bài văn, bài thơ viết về hoa sữa, cây hoa sữa đã tôn thêm biết bao thơ mộng cho Hà Nội những mùa đông. Tôi yêu Hà Nội, tôi yêu những đêm đầu đông không gian lành lạnh sực nức mùi hoa sữa, tôi ước mong có nhiều đường phố Hà Nội được trồng thêm nhiều cây sữa, một loại hoa không đẹp nhưng ngát hương, và chẳng thể nào quên với những người đi xa. Hoa sữa quả là một món quà quý giá mà thiên nhiên ban tặng cho Hà Nội, Thủ đô yêu dấu của chúng ta
Aug 20 2006, 11:30 AM
Bởi: Biển Ngàn Thu Phẳng Lặn
BÁNH TÔM HỒ TÂY Ai đã từng đến Hà Nội chắc sẽ háo hức được một lần tìm đến bánh tôm nóng Tây Hồ, để có dịp thưởng thức thứ đặc sản có một không hai của đất này. Chỉ cần một lần thế thôi cũng đã thành ấn tượng. Bởi một lẽ ăn bánh tôm Hồ Tây đâu chỉ phải là ăn để mà ăn mà còn để ngắm trời, ngắm đất, ngắm người, ngắm cảnh. Thưởng thức bánh tôm trong khung cảnh hoàng hôn mùa hạ thì thật tuyệt. Này nhé, con tôm nước ngọt Hồ Tây vừa chín tới phổng phao màu hồng lựu nằm trên mặt chiếc bánh vàng ươm, nhai cứ ròn tan như miếng bánh đa vừa nướng. Vị tôm ngọt mà thơm cộng với cái giòn và ngậy của bánh, chấm với nước mắm dấm chua cay, phảng phất hương cà cuống ruộng đồng ven đô cho ta cái cảm giác ngọt tê dịu dàng nơi đầu lưỡi. Cứ thế nhai tan một miếng, nhấp một hơi bia lạnh, hít thở qua hơi gió thoảng qua đượm mùi mỡ béo ngậy, thơm từ lò bếp lọt ra mà thả lòng mình thanh thản tận hưởng bánh và gió hồ mát rời rợi, để rồi lục tìm trong trí nhớ thấp thoáng đâu đó câu chuyện huyền tích Trâu Vàng lạc mẹ đã đầm mình làm nên sóng nước Hồ Tây hôm nay. Bánh tôm Hồ Tây đã từ lâu đi vào tuổi học trò. Mấy ai đi học trường Bảo Hộ xưa (nay là trường Chu Văn An) lại không biết mùi bánh tôm nóng trước cổng trường. Bây giờ không còn bà hàng bánh tôm trước cổng trường nữa mà đã có một nhà hàng bánh tôm đồ sộ sang trọng. Thời đại công nghiệp đã xoá nhoà hình ảnh người chao bột, rán bánh để cho người ăn "bâu" quanh, "gạ" chuyện và chờ "chộp" lấy cái bánh đầu tiên vừa chín tới cho mình. Cái thú ngồi xem người rán bánh bây giờ chỉ còn là hoài niệm. Người dân Hà Nội cũng đã dần quen với ngồi bàn cao, ghế tựa, uống bia, ăn bánh cắt sẵn từ trong lò. Cái khẩu vị của người ăn bánh tôm xưa bây giờ đã đã bị đánh rơi ở đâu, từ lúc nào, nhưng cũng chẳng mấy ai bận tâm tìm lại. Có lẽ với người Hà Nội biết ăn và sành ăn thì hình thức bán hàng chỉ là thứ yếu, mà cái quan trọng là bánh tôm Hồ Tây vẫn giữ được nguyên vẹn hương vị cổ truyền của nó, để cho bất cứ ai muốn thưởng thức cũng phải bất ngờ cảm nhận được mùi vị ngon lành của bánh tôm rất nóng, rất ròn, rất thơm ngậy với thứ nước chấm pha có nghề với đủ vị mặn, ngọt, chua, cay.
Aug 20 2006, 11:23 AM
Bởi: Biển Ngàn Thu Phẳng Lặn
CHẢ CÁ LÃ VỌNG Vốn là một món ăn dân gian do gia đình họ Đoàn chế biến để bán trong thời gian chống Pháp, nhằm che mắt địch và tạo điều kiện cho hoạt động chống Tây của một nhóm người yêu nước được dễ dàng. Chả cá đã trở thành món ăn khoái khẩu của thực khách sành ăn Hà Nội. Lâu dần, hai tiếng chả cá được gọi thành tên phố và nó đã trở thành một trong những địa chỉ văn hoá vật chất nổi tiếng của Hà Nội xưa - nay. Trong nhà hàng luôn bày một ông Lã Vọng ngồi bó gối câu cá bên dòng suối - biểu tượng của người tài giỏi nghĩa hiệp ưu thời mẫn thế phải thúc thủ đợi cơ. Vì thế khách ăn quen gọi là Chả cá Lã Vọng, ngày nay trở thành tên gọi của nhà hàng. Người sành ăn phải đợi đến khi cái rét bắt đầu về, đi ăn Chả cá mới ngon. Cá làm chả lại phải là cá Lăng thật tươi mới đúng vị, vì cá Lăng ít xương, lại ngọt thịt và thơm. Không có cá Lăng thì mới buộc phải dùng đến cá nheo, cá quả. Trước đây trong nhà hàng còn có món chả chế biến từ cá Anh Vũ bắt ở ngã ba sông Bạch Hạc thuộc thành phố Việt Trì. Thịt cá này mà lọc ra cuộn với lá sói nướng lên thì chả thơm hết chỗ nói. Nhưng cá này rất hiếm, lại có mùa nên món chả này rất đắt và hãn hữu mới có. Vì thế để phục vụ đại trà cho thực khách như hiện nay, nhà hàng thường phải thay thế bằng cá quả. Thịt cá phải lạng từ hai bên sườn, thái mỏng ướp với nước riềng, nghệ, mẻ, hạt tiêu, nước mắm rồi kẹp vào cặp tre nướng trên lò than hoa hồng rực đặt ngay trên bàn ăn của khách. Người nướng phải khéo sao cho cá chín vàng đều hai bên sau đó gỡ ra bát, rưới mỡ đang sôi lên trên. Ăn chả phải ăn nóng, kèm với bánh đa nướng hay bún rối, lạc rang, rau mùi, húng láng, thì là, hành củ tươi chẻ nhỏ chấm với mắm tôm, vắt nhiều chanh tươi đánh sủi lên rồi tra thêm một chút tinh cà cuống, thêm vài giọt rượu trắng. Người ăn cứ thế nhấm nháp, nhẩn nha đàng hoàng, vừa ăn vừa nhâm nhi với chút rượu mạnh mới thấy hết cái hương vị đặc trưng có một không hai của món ăn lạ miệng này. Tiếng mỡ nóng phi hành hoa kêu lép bép. Màu cá nướng vàng rộm thơm lừng đặt trên những lớp rau thì là xanh mướt, bên lò nướng than hồng rực, ấm áp cho ta cái cảm giác như đang được hưởng cái tinh tuý của đất trời nước non.
Aug 20 2006, 11:11 AM
Bởi: Biển Ngàn Thu Phẳng Lặn
BÁNH CUỐN THANH TRÌ Đã quen ăn bánh cuốn ở Hà Nội, nếu ta đi ăn bánh cuốn ở một nơi nào khác, sẽ thấy mình trở thành người khó tính từ lúc nào không biết nữa. Bởi vì dù có thiên vị hay không thì bánh cuốn Hà Nội, mà lại là bánh cuốn Thanh Trì thì không thể chê vào đâu được. Người Hà Nội sành ăn nên ngay từ cái bánh cuốn cũng phải thật cầu kỳ chu đáo. Bột làm bánh phải làm từ thứ gạo ngon, thì bánh mới không nồng, sắc bánh mới trắng. Tráng bánh phải thật mỏng, mỡ thoa phải đều tay cho mướt mặt bánh để khi nếm vào thì thanh nhẹ, mát rượi. Phết nhân bánh cũng đòi hỏi sự khéo léo sao cho bánh không thô, nhân đều từng cái. Trong thúng, bánh được xếp thành từng lớp gối nhau trên những tàu lá chuối xanh màu ngọc thạch, sắc trắng pha những đốm nhân màu hồng sậm của thịt và màu nâu tươi của mộc nhĩ nổi bật lên một cách hiền lành. Khi ăn, bánh được bàn tay người bán nhẹ nhàng bóc từng lớp mỏng tang rồi cuộn lại, bày lơ là trên những chiếc đĩa khiêm nhường. Bánh thơm dịu, êm êm được dầm vào trong chén nước mắm nhỏ xíu xinh xắn rồi đưa lên miệng, ta sẽ thấy cả một sự kết hợp nhịp nhàng. Mùi thơm của bánh và nhân quyện lẫn cái vị chua cay mặn ngọt của nước chấm, lại thêm vài giọt tinh cà cuống nữa thì thật là tuyệt. Với cách bán hàng như thế, chỉ một cái thúng đội trên đầu, các bà, các cô vùng Thanh Trì đi khắp các ngõ phố rao bán. Người bán lại chiều khách và luôn sẵn sàng ngả thúng bánh xuống bên vỉa hè hay trong ngõ phố cho mấy bác xích lô, mấy chị bán hàng ăn. Bán như thế, ăn như thế, nhưng ngon, thật ngon và không lẫn với bất cứ thứ bánh cuốn nào. Xưa khi ăn bánh cuốn Thanh Trì người ta thường thêm vài miếng đậu rán thật nóng, thật phồng. Tuy nhiên ngày nay có thể do ăn bánh cuốn như thế thanh nhã quá nên người ta đã điểm vào một vài miếng chả rán hay thịt quay ba chỉ giòn tan. Một thứ mềm mà thanh, một thứ thì nục nạc mà giòn, ngậy, béo tạo ra một mâu thuẫn nhưng cũng cho cái vị là lạ. Bánh cuốn Hà Nội ngày nay có nhiều loại và đã trở thành món quà sáng rẻ mà ngon. Có loại ăn nguội, có loại ăn nóng, có loại có nhân thịt, có loại không nhân...mỗi thứ cho một khẩu vị riêng. Song người ta vẫn nhắc đến bánh cuốn Thanh trì như một sản phẩm của nghệ thuật ẩm thực dân dã.
Aug 20 2006, 11:04 AM
Bởi: Biển Ngàn Thu Phẳng Lặn
BÚN THANG Ở Hà Nội, các món quà gốc bún quả là nhiều: bún ốc, bún riêu, bún sườn, bún bung, bún chả và bún thang... Mỗi thứ mỗi ngon, mỗi thứ mỗi hương vị nhưng bún thang vẫn là thứ bún nổi tiếng hơn cả. Nếu nói như Vũ Bằng nhìn bát phở cho ta cái cảm giác của bức hoạ lập thể bạo màu thì quan sát tô bún thang cho ta cái cảm giác đang được ngắm bức tranh phong cảnh trong trẻo của Sông Stêbơn, mà ở đó những mảng màu nguyên chất được đặt gần nhau chứ không pha lẫn. Một ít rau răm mùi tàu xanh ngát, sau đó là các thứ nguyên liệu thực phẩm khác dải đều trên nền bún trắng. Một nhúm trứng tráng mỏng tang thái chỉ màu điệp, một chút lườn gà xé phaymàu trắng ngà, kế đến là giò lụa thái sợi màu hồng nhạt, cuối cùng rắc tôm bông. Ở chính giữa là lòng đỏ trứng mặn, xung quanh lác đác mấy lát lạp xườn đỏ viền miệng bát. Tất cả như một bông hoa mà nhụy là khoanh trứng màu vàng sẫm. Cuối cùng nước dùng nóng rẫy được chan thật vừa bát cho người ăn. Ăn bún thang ở hàng tất nhiên là đắt nhưng thực sự là ngon. Bún thang làm ở nhà không sao địch nổi. Cho nên dù tốn kém, nếu thích các món chế biến hết sức cầu kỳ tẩn mẩn này cứ phải ra hàng nổi tiếng, bởi ở nhà không thể có nồi nước dùng ngọt như vậy. Các bà nội trợ khẳng định phải có đủ 20 thứ mới làm được bún thang ngon. Tuỳ theo khẩu vị từng người mà bún thang có thể gia giảm thêm chút mắm tôm vào bát cho dậy mùi. Trước kia bún thang và bánh cuốn là hai món ăn quý, nhưng ngày nay nó đã được bình dân hoá và bán khá nhiều ở các khu chợ, ngõ phố, nhưng sức hấp dẫn của nó với thực khách thì vẫn như xưa. Người Hà Nội vẫn coi bún thang như một thứ đặc sản của đất lề.
Aug 20 2006, 10:55 AM
Bởi: Biển Ngàn Thu Phẳng Lặn
CỐM VÒNG "Mùa thu, mùa cốm vào ngay mùa hồng" (Nguyễn Bính) Không biết nhà thơ của hương đồng gió nội này đã ở Hà Nội bao lâu mà sao lại gọi đúng vị mùa thu Hà Nội đến thế. Hàng năm cứ mỗi độ thu về là người Hà Nội lại nao nao như chờ đợi một cái gì đó. Chỉ đến khi nghe tiếng rao trong trẻo cất lên: Ai cốm Vòng ơ! mới thấy lòng nhẹ nhõm. Mà cũng lạ thật! Nói đến cốm, chưa cần ăn, chỉ nghĩ thôi cũng đã thấy ngất lên mùi thơm dịu của lúa non xanh màu lưu ly được gói trong những tàu lá sen thơm ngát màu ngọc thạch. Cốm Vòng quả là một thứ đặc biệt trong mọi thứ quà Hà Nội. Không biết tự bao giờ người làng Vòng ở huyện Từ Liêm ngoại thành Hà Nội đã tạo được một món ăn tuyệt vời và độc đáo đến thế. Cốm Hà Nội mới đích thực là cốm, mà chỉ có cốm làng Vòng mới ngon, mới nổi tiếng. Kẻ Lủ cũng làm cốm, nhưng cốm Kẻ Lủ chỉ bán trong làng. Có người cho rằng, ở làng Vòng có giống nếp vàng, giống này khi còn non gặt về, đồ chín, giã nhanh, đều tay, sàng sảy, ủ kín mới có được cái loại cốm dẻo và thơm như thế . Còn màu xanh hấp dẫn đó thì do hồ thêm nước lá cơm xôi. Hà Nội có mùa cốm. Sáng sớm tinh mơ đã có cốm. Cốm được gói từng gói trong lá sen. Cốm ăn bằng tay, lấy ngón tay nhón từng nhúm nhỏ đưa vào miệng, nhai nhỏ nhẹ, hương cốm thơm rất dễ chịu. Mua cốm là phải ăn ngay, nếu để lâu, cốm se lại, khô đi, mất độ dẻo. Cốm gói trong lá sen là để cho khỏi khô và đượm lấy hương thơm ngát của lá sen tơ, làm tăng thêm vị cốm. Cốm để khô có thể đem thắng nước đường làm món cốm xào. Đây cũng là món cốm người Hà Nội thích ăn. Ngoài ra cốm còn được làm thành món chả cốm rất ngon. Nhưng thích nhất vẫn là cốm tươi. Từ lâu cốm và hồng đã thành một thứ quà sang trọng dùng trong các dịp vui mừng để biếu xén, lễ lạt. Màu xanh của cốm, đặt cạnh màu đỏ lựng của hồng, chỉ ngắm thôi cũng đã thấy thích mắt. Một thứ thì nhẹ nhàng thanh khiết. Một thứ thì chói lọi mà vương giả. Hai thứ đó tưởng chừng xung khắc nhưng khi ăn vào mới thấy sự sắp đặt của tạo hoá quả là tinh tế. Vị ngọt lịm của hồng nâng mùi thơm của cốm lên kết thành một giai điệu nhịp nhàng êm ái như anh hùng gặp gỡ thuyền quyên !
Aug 20 2006, 10:33 AM
Bởi: Biển Ngàn Thu Phẳng Lặn
PHỞ HÀ NỘI Thời gian rồi cũng qua đi, tâm tính của người Hà Nội đổi thay, phố xá nhà cửa, cái ăn, cái mặc của người Hà Nội cũng khác xưa nhiều. Nhưng có một thứ ít thay đổi là khẩu vị của người Hà Nội. Những món ăn mang tính chất đặc trưng của Hà Nội đang được nhân lên khắp các phố phường và toả đi muôn nơi. Người Hà Nội vốn nổi tiếng về thanh lịch và sành điệu cả trong giao tiếp lẫn trong ăn uống. Vẻ đẹp nhẹ nhàng, cầu kỳ, trọng chất chứ không trọng số đã trở thành đặc trưng trong nghệ thuật ẩm thực Hà Nội. Người Hà Nội rất biết chọn nơi, chọn cửa để thưởng thức món ăn, và khi đã hợp khẩu vị ở đâu đó thì lại rất chung thuỷ với món đó, nơi đó. Món ăn Hà Nội có nhiều, nhưng nhắc đến món ăn Hà Nội là người ta nhắc đầu tiên đến phở. Phở như một thứ đại diện mang tính bản sắc, đặc thù của món ăn Hà Nội. Lý do thật đơn giản phở Hà Nội khác hẳn các nơi khác, nó không thể trộn lẫn với bất cứ một thứ phở nơi nào, cho dù ở đó người ta đã cố tình trương lên cái biển Phở Hà Nội. Phở Hà Nội có cái ngọt chân chất của xương bò, cái thơm của thịt vừa chín đến độ để vẫn dẻo mà lại không dai. Màu nước phở trong, bánh phở mỏng và mềm. Chỉ nhìn bát phở thôi cũng đủ thấy cái chất sành điệu, kỹ càng trong ăn uống của người Hà Nội. Một nhúm bánh phở đã trần qua nước nóng mềm mại dàn đều trong bát, bên trên là những lát thịt thái mỏng như lụa điểm mấy ngọn hành hoa xanh nõn, mấy cọng rau thơm xinh xắn, mấy nhát gừng màu vàng chanh thái mướt như tơ, lại thêm mấy lát ớt thái mỏng vừa đỏ sậm vừa màu hoa hiên. Tất cả màu sắc đó như một bức hoạ lập thể hơi bạo màu nhưng đẹp mắt cứ dậy lên hương vị, quyện với hơi nước phở bỏng rẫy, bốc lên nghi ngút, đánh thức tất thảy khả năng vị giác, khứu giác của người ăn, khiến ta có cảm giác đang được hưởng cái tinh tế của đất trời và con người hợp lại. Chỉ húp một tý nước thôi đã thấy tỉnh người. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cái cay dịu của gừng, cái cay nồng của ớt, cái thơm nhè nhẹ của rau thơm, cái thơm của thịt bò tươi mềm. Tất cả cứ ngọt lừ đi, ngọt một cách hiền lành, êm nhẹ mà chân thật, tuyệt kỹ hài hoà. Phở Hà Nội là như thế, đó là cái ngon của tất thảy những chất liệu đời thường Việt Nam nhưng đã được bàn tay tài hoa của người Hà Nội làm thành tác phẩm!
Aug 20 2006, 10:23 AM
Bởi: Biển Ngàn Thu Phẳng Lặn
GIỚI THIỆU VỀ CÁC GIÁ TRỊ CỦA KHU PHỐ CỔ HÀ NỘI 1. Giá trị lịch sử Khu “36 phố phường” Hà Nội nằm ở phía đông bắc thành cổ trong gần 10 thế kỷ đã chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử hào hùng của dân tộc trong sự nghiệp chống ngoại xâm giữ nền độc lập cho nước nhà. Khu Phố Cổ này, cùng với sông Hồng, là khu bảo vệ vòng ngoài cho thành cổ trong thời chiến, là khu vực buôn bán sầm uất nuôi sống thành cổ trong thời bình, là gương mặt của đất nước trong quân hệ đối ngoại. 2. Giá trị văn hoá Khu 36 phố phường xưa nổi tiếng là đất “ngàn năm văn vật”; “Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến”, với nhiều hoạt động sôi nổi cả ngày lẫn đêm; “dập dìu tài tử giai nhân, ngựa xe như nước, áo quần như nêm”. Nơi đây, không chỉ đã từng là một trung tâm kinh tế mà còn là một trung tâm văn hoá đa dạng; văn hoá ẩm thực phong phú với nhiều tiệm cao lâu nổi tiếng của người Hoa, tiệm ăn của người Việt... Sau này là các hoạt động biểu diễn của các đoàn Quảng Lạc, Chuông Vàng, Kim Chung, Kim Phụng, hoạt động sôi nổi của các rạp chiếu phimv.v. Do vậy nhìn nhận khu 36 phố phường không nên chỉ đơn thuần là khía cạnh văn hoá vật thể (đánh giá đơn thuần về công trình kiến trúc), mà còn là khía cạnh văn hoá phi vật thể, đó chính là cái hồn của phố cổ. Nếu vật thể là những cái nhìn thấy được như: đình, đền, chùa, miếu...thì phi vật thể là những cái không có hình hài vật chất: ca dao, truyện cổ, tín ngưỡng, tâm linh, cách sống, phong cách làm ăn, buôn bán...Song thực tế không có sự khác biệt rành rọt như vậy. Ca dao tục ngữ là truyền miệng, là vô hình nhưng sách sưu tầm và in ra các ca dao tục ngữ lại là vật hữu hình. Hay tín ngưỡng, lễ nghi, thờ phụng, cúng bái, là vô thể, song chúng diễn ra ở nhà thờ, đình, đền, miếu một cách hữu hình. Như vậy văn hoá phi vật thể phải dựa vào vật thể để lưu hành và lưu truyền cho các thế hệ. Phong cách buôn bán cổ thể hiện đầy đủ tính chất chợ, tức là thị, của đô thị một nước mới thoát khỏi chế độ phong kiến chưa lâu, có nền sản xuất manh múm chưa được công nghiệp hoá và sự lưu thông hàng hoá còng nhỏ lẻ. Hà Nội là đất Kinh Đô ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ kết tinh, tinh tuý của mọi miền. Di sản văn hoá phi vật thể Hà Nội có trữ lượng khá lớn, nó đã phản ánh một cách phong phú, đa dạng và chân thực truyền thống sinh hoạt văn hoá của người Hà Nội. Một số loại hình của bộ phận di sản này trong những năm qua đã được sưu tầm, nghiên cứu như làng nghề phố nghề, sinh hoạt lễ hội, nghề, phong cách sống, ẩm thực...Văn hoá phi vật thể Hà Nội là tổng hoà các yếu tố giao lưu, hội nhập, dung hoà, tiếp biến, cởi mở, linh hoạt, để tạo nên bản sắc Thăng Long - Hà Nội, một vùng đất “hội thuỷ, hội nhân và hội tụ văn hoá vô cùng phong phú và đa dạng”. Nghề thủ công: Chỉ cần đọc những tên phố có chữ hàng ở đầu, ta đã khẳng định được phố cổ Hà nội là khu vực tập trung nhiều nghề thủ công nhất. Những người ở đó có thể là thợ thủ công kiêm thương nhân, vừa sản xuất theo kiểu gia công đặt hàng cho khách vừa bày bán một số hàng làm sẵn tại cửa hiệu. Đó là các loại thợ thêu (làng Quất Động - Thường Tín - Hà Tây), thợ làm trống (gốc làng Đọi Tam - Hà Nam), thợ tiện (làng Nhị Khê - Hà Tây), thợ làm mành (làng Giới Tế - Bắc Ninh), thợ làm quạt (làng Đào Xá - Hưng Yên), đúc đồng (làng Đại Bái), vàng bạc (làng Định Công)... Những người thợ thủ công ở khắp nơi mang nghề độc đáo của quê hương mình lên Hà Nội làm ăn, họ lập ra những phố riêng bán sản phẩm của quê huơng mình. Họ thành lập và liên kết với nhau trong các phường hội để giúp nhau trong cuộc sống cũng như trong việc giữ dìn nghề tổ. Giữa những người ở Thăng Long - Hà Nội với những người ở quê luôn giữ mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Khá nhiều những phường nghề ở Hà Nội đã cùng nhau đóng góp xây đình để thờ vọng Thành Hoàng hay tổ nghề của làng mình. Trong nhiều năm qua có khá nhiều hội đồng hương của các làng nghề tập trung tại Hà Nội đã hoạt động rất hiệu quả. Tiêu biểu là hội đồng hương làng gò đồng Đại Bái. Hầu hết những người buôn bán và sản xuất ở phố Hàng Đồng hiện nay là dân làng Đại Bái thuộc huyện Gia Lương tỉnh Bắc Ninh. Có thể nói những phường hội như thế đã giúp cho nghề nghiệp ở quê hương cũng như ở Hà Nội phát triển đồng thời mọi người gắn kết với nhau cùng nhau giữ gìn và phát huy lối sống, nhưng phong tục tập quán tốt đẹp của quê hương mình. Văn hoá ẩm thực của người Hà Nội: Hà nội là đất kinh đô ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ kết tinh, tinh tuý của mọi miền. Ngoài văn hoá Vật thể, di sản văn hoá phi vật thể Hà Nội có trữ lượng khá lớn. Nó đã phản ánh một cách phong phú, đa dạng và chân thực truyền thống sinh hoạt văn hoá của người Hà Nội. Một số loại hình của bộ phận di sản này trong những năm qua đã được sư tầm, nghiên cứu đã khẳng định văn hoá phi vật thể Hà Nội là tổng hoà các yếu tố giao lưu, hội nhập, dung hoà, tiếp biến, cởi mở, linh hoạt, để tạo nên bản sắc Thăng Long - Hà Nội một vùng đất “hội thuỷ, hội nhân, và hội tụ văn hoá vô cùng phong phú và đa dạng” Trong kho tàng văn hoá phi vật thể Hà Nội các giá trị về văn hoá ẩm thực chiếm một vị trí đáng kể.Chính những giá trị này đã góp phần sâu sắc để định hình nên bản sắc văn hoá Hà Nội, phong vị Hà Nội như đã được nhắc đến khá nhiều. Những món ăn đặc sản như chả cá Lã Vọng, Xôi lúa Tương Mai, cốm Vòng, bánh cuốn Thanh Trì, rượu Mơ...Những quán ăn với cách bài trí thanh lịch, những tiếng rao đêm đầy ấn tượng của Hà Nội xưa, những thói quen trong cách ăn uống...tất cả đã góp phần làm cho Hà Nội trở thành khó quên đối với những ai đã từng một lần đặt chân tới Hà Nội, nhà văn Thạch lam đã từng viết: “muốn biết rõ một thành phố không cần phải biết những lâu đài mỹ thuật, những bảo tàng, những tờ báo, hay những nhà văn, nhưng cần phải biết những chốn mà dan thành phố ấy ăn chơi. ăn và chơi đó là hai điểm hành động mà trong ấy người ta tỏ rõ cái tâm tính cái linh hồn mình một cách chân thực nhất”. Riêng nói về món quà ngon của Hà Nội thì ông đã ca ngợi hết lời: “Người Hà Nội ăn thì ngày nào cũng ăn nhưng thường không để ý. Nếu chúng ta về ở các tỉnh nhỏ ít lâu, hay ngay ở Hải Phòng, Nam Định nữa, chúng ta mới biết quà ở Hà Nội là ngon chừng nào” Tìm hiểu về những món ăn, nhất là các món ăn “cổ truyền” của Hà Nội không chỉ là để nhận biết, thưởng thức cái thú vị đến lạ lùng, cái ngon lành bổ béo của những thức ăn “cổ truyền” của nguời Hà Nội. Mà còn là những chuyện thuộc các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, cung cấp và tiêu thụ,kỹ thuật và thị trường của các món ăn đó. Muốn bảo tồn và phát huy văn hoá ẩm thực thanh lịch của người Hà Nội trước hết phải làm cho mọi người hiểu về các món ăn của người Hà nội. Phong cách ăn của người Hà Nội: ăn vì lý do gì, ăn ở đâu, ăn với ai, ăn những món gì?... Từ xa xưa khu phố cổ vẫn là nơi tập trung những hàng ăn có tiếng, những món ăn cổ truyền đặc sắc của người Hà Nội. Lễ hội: Trong một phần rất quan trọng của văn hoá phi vật thể mảng truyền thuyết cũng được đánh giá là vô cùng quan trọng. ở đây đã hình thành những mảng truyền thuyết già đời như truyền thuyết cổ đại của cả nước ta. Từ thời Hùng Vương thứ VI, trước cả ông Thánh Gióng của làng Phù Đổng quá ư nổi tiếng, tại trung tâm khu Phố cổ Hà nội, tại bến Tiên Ngư (Cá tươi) trên bờ sông Tô Lịch đã hình thành câu truyện của ông Lý Tiến chống giặc Ân khi chúng xâm lược nước Văn Lang đã bị tử thương trong chiến đấu. Lý Tiến đã hy sinh khi về đến làng quê Tiên Ngư trên bờ sông Tô Lịch này. Sau khi mất, ông đã báo mộng vua Hùng khuyên vua rao mõ cầu hiền, do đó đã phát hiện Thánh Gióng. Sự tích Lý Tiến được ghi trong Thần phả và trong sách Tây Hồ Chí. Có thể nói đây là một trong những vị anh hùng chống ngoại xâm đầu tiên của dân tộc và đã hy sinh anh dũng ngay trên địa phận khu Phố Cổ. Đền thờ nay còn dấu vết ở phố Hàng Cá, số nhà 27. Lễ hội dân gian Hà Nội cổ truyền trước cách mạng tháng Tám nhất là từ thế kỷ 19 trở về trước không những có một quá trình lịch sử lâu dài mà còn phát triển mạnh mẽ và giữ vai trò của một loại hình sinh hoạt văn hoá cộng đồng quan trọng ở Kinh Đô. Hạt nhân của lễ hội Hà Nội là nghi thức, lễ tiết nông nghiệp, thờ nước, thờ lúa cùng các sản phẩm của cây lúa. Điều này không chỉ diễn ra ngay ở nội thành (nhất là khu phố cổ hiện nay), giữa vùng tụ cư thị dân đông đúc với những lễ tiết nông nghiệp điển hình như “lễ tế xuân ngựu” với tục “Đả xuân ngưu” của phường Đông Hà xưa mà không gian của lễ hội trải dài trên các phố từ Hàng Chiếu đến tận Hàng Gai bây giờ. Hà nội xưa tuy giữ vị trí đô thị hàng đầu nhưng vẫn không thoát khỏi sự phát triển yếu ớt và chậm chạp của các đô thị cổ Việt Nam cũng như các đô thị cuả Phương Đông. Vì thế không có văn hoá đô thị rạch ròi mạnh mẽ và tất yếu lễ hội cổ truyền Hà Nội phải mang đậm tính chất nông thôn nông nghiệp, bên cạnh chất nông thôn nông nghiệp, lễ hội cổ truyền Hà Nội còn đậm đà màu sắc lịch sử, bởi không đâu khác Hà Nội là trung tâm, là nơi tập trung các nhân vật lịch sử và những sự kiện lịch sử, những dấu ấn lịch sử của môi trường văn hoá đô thành. Tuy Hà Nội xưa kém phát triển theo kiểu một đô thị trung cổ phương Đông nhưng kgông ở đâu có điều kiện phát triển văn hoá qua lễ hội bằng Hà Nội. Bởi vì lễ hội phải được xây dựng trên một tổ chức cao, có được phương tiện, điều kiện vật chất và có xã hội phát triển. Với những điều kiện như thế, Hà Nội xưa đã đáp ứng tót hơn tất cả mọi nơi. Vì Hà Nội là Kinh Đô của cả nước; Hà Nội có vua, có triều đình, có văn hoá bác học, coi trọng văn hoá lễ hội. Đặc biệt Hà Nội có các phố phường thủ công, thương nghiệp dịch vụ tạo được những điều kiện vật chất cao cho lễ hội. Có lẽ bởi vậy điều ta rất dễ thấy ở nhiều lễ hội cổ truyền Hà Nội là quy mô lớn và đồ sộ, Song lại rất thanh lịch. Lễ hội dân gian xưa của Hà Nội chiếm vị trí rất lớn và có tác động tích cực, sâu sắc đến đời sồng tinh thần, đời sống văn hoá của người Hà Nội. Thông qua lễ hội và trong lễ hội mọi hành động đều chứa đựng ý nghĩa thiêng liêng đặc biệt. Nó là thời điểm gắn bó các thành viên của cộng đồng lại với nhau. Nó là thời điểm mà đời sống văn hoá của mọi người được tổ chức chặt chẽ và có quy mô, do đó được nâng lên một trình độ ao hơn so với những ngày thường, và đó còn là thời điểm hội tụ các khả năng sàng tạo hội tụ các thể loại văn nghệ, đưa lại niểm phấn khởi hào hứng cho mọi người. Qua điều tra về các lễ hội Hà Nội, riêng ở nội thành thì lễ hội ở “Thăng Long tứ trấn” là đền Bạch Mã, đền Voi Phục, đền Kim Liên và Quán (hay Đền) Trấn Vũ đều diễn ra hàng năm với nghi thức ngày một trang trọng. Trong khu Phố Cổ còn có một số đình đền như đình Đồng Lạc số 38 Hàng Đào, đình Đại Lợi số 50 Gia Ngư, đình Trang Lâu số 77 Nguyễn Hữu Huân, đình Đông Hà số 46 Hàng Gai...các truyền thuyết đó đã hàng bao đời in sâu vào trí óc, tình cảm của nhân dân và do đó đã có một sức sống mạnh mẽ. Vừa có thể coi như một tư liệu bổ sung cho chính sử và nhất là đã trở thành một thế giới tâm linh mà mọi người có thể tìm được ở đó một nguồn năng lượng vô hình nhưng đầy tin tưởng. Một di tích nữa chứng minh lịch sử lâu đời và đồng thời cũng là một khía cạnh của tâm linh người Hà Nội thời cổ sơ là ddền Hương Nghĩa, số 13B phố Dào Duy Từ. Đền thờ Cao Tử, em con chú ruột ông Cao Thông, tức Cao Lỗ, người đã chế tạo ra chiếc nỏ thần kỳ giúp vua Thục An Dương Vươngđánh quân xâm lược Triệu Đà. Cao Tử có tài võ nghệ, từng thi diễn tại thành Cổ Loa và được vua Thục gả công chúa Phương Minh là con gái thứ ba, em của Mỵ Châu. Ông chỉ huy quân Thuỷ và đã đánh bại Triệu Đà nhiều lần, sau khi Trọng Thuỷ đánh lừa Mỵ Châu lấy cắp được bí mật nỏ thần và phản bội đem quân xâm lấn. Cao Tử dàn bày thế trận ở Khu Kiên Nghĩa trên bờ sông Tô, ngồi trên voi chửi mằng Trọng Thuỷ và thúc quân tiến đánh. Vì lực lượng chênh lệch nên bị thua. Cao Tử đã hy sinh ở trong dòng sông “Tô Lịch cùng voi chiến”. Sau khi mất, ông được thờ ở Hương Nghĩa và đình Ngũ Đằng, phố Hàng Bè. Đền Ngũ đằng có cả tượng voi đá và trước đây còn giữ được đôi câu đối khá tiêu biểu: “Tô chữ mô ba đào, nhất phiến tinh trung truyền Thục sử Lao thành huyền nhật nguyệt, cửu trùng hoa cổn tự Đinh triều” Dịch là: “ Sông Tô nổi dậy sóng căm hờn, tấc dạ tinh trung truyền sử Thục Thành Loa treo cao vầng nhật nguyệt, áo hoa phong tặng vi triều Đinh” (Đền Hương Nghĩa nay còn giữ được tương đối tốt, còn đền Ngũ Đằng rất tiếc đã bị biến ...thành cửa hàng!) Trong khu phố cổ còn có một đình đền khác thờ Tản Viên và hai anh em là Cao Sơn và Quý Minh, tượng trưng cho núi Ba Vì, từ xưa vẫn còn là núi thiêng của cả nước, đồng thời cũng được coi là bức chắn phía Bắc của kinh thành Thăng Long. Như đinhg Đồng Lạc ở 38 Hàng Đào , đình Đại Lợi ở số 50 Gia Ngư, đình Trang Lâu số 77 Nguyễn Hữu Huân, đình Đông Hà số 46 Hàng Gai... các truyền thuyết đó đã hàng bao đời in sâu vào trí óc, tình cảm của nhân dân và do đó đã có một sức sống mạnh mẽ. Vừa có thể coi như tư liệu bổ sung cho chính sử và nhất là đã trở thành một thế giới tâm linh mà mọi người có thể tìm được ở đó một nguồn năng lượng vô hình nhưng đầy tin tưởng. Ngoài ra khu phố cổ còn là nơi phát nguồn của sông Tô Lịch, nơi mà sau này thành phường khương Giang Khẩu nổi tiếng. Có thể tin chắc rằng chỗ ngã ba sông Cái và sông Tô là một địa điểm dân cư khá lâu đời. Của sông Tô lần đầu tiên được ghi trong sử như một vị trí chống ngoại sâm hiểm yếu vào năm 545 khi Lý Bí dựng thành luỹ tại đây để chống quân xâm lược Trần Bá Tiên. Bọn đô hộ sau đó đã nhận thấy vị trí chiến lược xung yếu của khu vực này nên đến năm 607, chúng đã dời đô sở đô hộ từ Long Biên (Bắc Ninh) sang nơi đây, mà chúng đặt tên là Tống Bình. để đề phòng những cuộc tấn công của người bản địa, chúng bắt dân chúng xây dựng những thành kiên cố, bắt đầu từ Khâu Hoà năm 621 sau đến Trương Bá Nghi và cuối cùng là Cao Biền (Thế kỷ thứ 9). Thời gian này đã hình thành một tín ngưỡng thờ thần Long Đỗ, tương truyền đã hiện ra trên không, khi Cao Biền, viên đô hộ đã đắp thành Đại La - Một buổi trưa ra chơi Cửa Đông ngoài thành, y đã sợ hãi, vội tìm đồng và sắt làm bùa yểm chôn xuống đất với hy vọng chế ngự được thần. Cao Biền phải than: “Đất nơi đây thật anh linh, ta phải mau về phương Bắc”. Và y đã dựng đền, đắp tượng thờ. Trong khu Phố Cổ còn có một truyền thuyết khá nổi tiếng kể rằng Lý Công Uẩn khi chuyển kinh đô từ Hoa Lư ra đây nhiều lần xây đắp thành không xong, đã cầu đảo và thấy hiện ra một con ngựa trắng đi vòng quanh khu vực định làm thành rồi vào trong đền biến mất. Lý Công Uẩn đã dựa theo dấu vết chân ngựa để xây thành và công trình đã thành công nhanh chóng. Đó là thần Long Đỗ đã hiện lên giúp vua Lý, được vua đặt tên là Bạch Mã. Hiện nay thần Long Đỗ tức Bạch Mã được thờ tại đền Bạch Mã ở Hàng Buồm. Tín ngưỡng Long Đỗ - Bạch Mã đã cùng tín ngưỡng các thiên thần, thiên thần thời Hùng Vương, nói lên tâm hồn người Thăng Long - Hà Nội yêu nước, yêu đồng bào thắm thiết. Một khía cạnh văn hiến trong khu Phố cổ Hà nội của Thăng Long là tâm linh hướng tổ, tức lòng ngưỡng mộ tổ tiên; hướng vào cội nguồn, không “xanh như lá bạc như vôi”. Dù ở bốn phương, tứ trấn qui tụ về đây dân chúng vẫn luôn nhớ về làng quê gốc cũ. Sự hiện diện của khá nhiều đình đền gọi là “vọng từ, vọng đình” đã chứng minh điều đó: Nhị Khê vọng từ phố Hàng Hành, Trâu Khê vọng đình phố Hàng Giày, hai đình Hàng Bạc ở phố Hàng Bạc(42 và 50), hai đình Hàng Giày ở ngõ Hài Tượng và ở phố Hàng Hành, đình Hàng Quạt (Hàng Quạt), đình thợ thêu (ngõ Tạm Thương), đình Thợ Nhuộm (phố Hàng Đào), hai đình thợ Rèn (phố Lò Rèn và Lò Sũ) v.v... Ngoài làng nghề lại có cả làng văn (thực ra văn cũng là một nghề). ở phố Hàng Bông, số 68 là đình Lương Ngọc do dân làng này vốn ở huyện Bình Giang (hải Dương) ra đây sinh sống và xây nên. Lương Ngọc là quê của nhà thơ nổi tiếng Phạm Quý Thích từng mở một trường dạy học đào tạo rất nhiều danh sĩ: Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Siêu...có lẽ trường học ngay đình này, vì tại đây có một câu đối khá tiêu biểu: “ Giáp khoa tạc vọng truyền kinh quốc Văn hiến danh hương ngưỡng đẩu sơn” Dịch là: “ Tiếng đức lớn giáp khoa, truyền khắp kinh đô đất nước, Chốn danh thơm văn hiến ngửa trông Bắc Đẩu Thái Sơn” (Bắc Đẩu Thái Sơn là tượng trưng cho thầy dạy đáng kính trọng) Ngõ phất lộc có ngôi đình Tiên Hạ của dân làng Phất Lộc. Phất Lộc thuộc huyện Đông Quan, tỉnh Thái Bình có ông tổ họ Bùi ra Thăng Long học ở trương Giám rồi định cư ra đây. Họ này vừa buôn bán, vừa có nhiều người nổi tiếng về văn học như Bùi Tú Lĩnh, Bùi Khánh Diễn. Chính họ này đã bỏ tiền tậu đất, làm nhà dựng văn chỉ huyện Thọ Xương tại phố Bạch Mai. Không chỉ họ Bùi, trong ngõ này còn có nhà thờ họ Đinh, họ Lê cả ba nhà thờ họ này là những dấu tích của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Những di tích trên, không những cho thấy sức hút của kinh đô Thăng Long và chủ yếu là trung tầm kinh tế của Thủ đô, tức khu phố cổ, đối với các tỉnh khác của cả nước, mà mặt khác còn thể hiện một khía cạnh đáng yêu, đnág quí của tâm hồn dân tộc, tình lưu luyến quê hương xứ sở, trước sau như một, tình làng nước, đoàn kết giữa những người cùng một quê hương. Khu Phố Cổ chính là nơi đã lưu giữ - ngoài những công trình văn hoá còn có nhiều giá trị tinh thần mà ngày hôm nay có thể giúp chúng ta nhìn ra những khía cạnh khác nhau của tâm hồn người Thăng Long xưa để lựa chọn, thừa kế, xây dựng một khu Phố Cổ trong lòng thành phố Hà Nội. Các dòng họ Hà Nội: “Uống nước nhớ nguồn” từ lâu đã là một đạo lý Việt Nam, từ vô thức, tiềm thức đến ý thức. Vì thế nguyên lý cùng dòng nguồn khi tiểm ẩn, lúc bộc phát đang và sẽ còn đóng vai trò làm mền dẻo đi các nguyên lý xã hội khác như nguyên lý láng riềng, nguyên lý giai cấp...phải chăng vì thế CHủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời hay nói đến : “ Đại gia đình các dân tộc Việt Nam”, “bốn phương vô sản đều là anh em”... Con người ta luôn có nhu cầu muốn biết về cội nguồn của mình. Đó là gốc rễ tình cảm - tính người về sự trở lại cội nguồn. Đồng thời nó còn có nguyên nhân xã hội - tâm linh sâu rộng hơn. Nói đến những dòng họ ở Hà Nội thì rất nhiều, qua kết quả đièu tra hiện có tới hơn 200 họ khác nhau ở Hà Nội và những vùng phụ cận. Trong đó nổi lên rất nhiều dòng họ tiêu biểu ví như: Họ Nguyễn - Kim Lũ, Họ Vũ - Đan Loan với nghề nhuộm nổi tiếng cùng sáu họ khác ở Xứ Đông sáng lập khu ngõ Phất Lộc và rất thạo kinh doanh. Ai cũng biết ngõ Phất Lộc là nơi gợi hứng bất tuyệt góp phần hình thành một phong cách nghệ thuật “Phố Phái” (Bùi Xuân Phái). Tục lệ hương ước Hà Nội: Thăng Long Hà Nội tuy là Kinh Đô, là đô thị lớn nhất của cả nước nhưng vẫn là “Kẻ Chợ” của “Kẻ Quê”, ở đó có các thôn làng phố phường đan xen và cùng nhau tồn tại qua trường kỳ lịch sử. Trong xã hội Việt Nam xưa các tổ chức đó thường đặt ra những điều ước để ràng buộc chế ngữ lẫn nhau, đièu hoà giả quyết các tranh chấp va chạm. Những điều ước ấy được gọi bằng nhiều cái tên khác nhau như Hương ước, hương khoán, quy ước, lệ định, tục lệ...nhưng tất cả được xây dựng tại địa phương, với yêu cầu cụ thể của từng địa phương. Cho đến đầu thế kỷ XX do yêu cầu của chính quền đương thời, các thôn làng phường phố của Hà Nội cũng như cả nước cũng phải tự kê khai hưiơng ước của địa phương mình theo khuôn mẫu qui định. Hiện nay theo số liệu điều tra, Hà Nội còn lưu giữ được hàng trăm bản hương ước bằng chữ Hán và chữ Nôm.Dân gian ta đã có câu “Phép vua thua lệ làng” điều đó nói lên sức mạnh và tác dụng gắn kết của hương ước đối với từng cộng đồng nhỏ. Tìm hiểu, nghiên cứu những bản hương ước, tục lệ của Hà Nội chúng ta có thể hình dung được các mặt sinh hoạt xã hội rất đa dạng thời xưa. Và cũng từ đó ta dễ dàng nhận thấy những mặtu tích cực, những điểm còn hạn chế của hương ước xưa. Tích cực ở chỗ các bản hương ước đều bao gồm những điều lệ rất chặt chẽ. Ai vi phạm hương ước là vi phạm đến cả cộng đồng, sẽ bị sử phạt theo mức độ nặng nhẹ khác nhau. Đó chính là cơ sở để giữ yên kỷ cương phép nước. Mã duy trì được kỷ cương phép nước. Mã duy trì được kỷ cương phép nước chính là để xây dựng một xã hội có luật pháp, thì có lẽ một chính thể nào, một xã hội nào cũng cần đạt tới. 3. Giá trị kiến trúc và cảnh quan Với một diện tích khoảng 100ha,nhưng đã tích tụ rất nhiều những yếu tố kinh tế, xã hội, tập quán, truyền thống...nhưng nổi bật hơn cả là các yếu tố, những vẻ đẹp vừa rất giản dị, mộc mạc, vừa rất đặc thù về bản sắc của một dân tộc có nền văn hoá, kiến trúc, tâm linh...rất riêng thông qua một không gian tổng thể với cái tên rất ẩn tượng: “Khu Phố cổ Hà nội”. Đó là cái tên mà ngày nay, mỗi khi nhắc đến, dù là người trong nước hay người nước ngoài đều nghĩ đến một cái gì đó rất đáng trân trọng. Bởi lẽ, tại đây đã chứa đựng và phản ảnh khá đầy đủ về các loại hình kiến trúc như nhà ở, đình, chùa, chợ búa, đường đi lối lại, đại diện cho một thời kỳ hình thành và xây dựng của Thủ đô chúng ta, Thủ đô Hà Nội. Kiến trúc đô thị là biểu hiện văn hoá vật chất của cộng đồng được hình thành qua quá trình phát triển liên tục và tuân theo qui luật tiếp biến văn hoá. Vì vậy, nhận diện bản sắc văn hoá đô thị, có một phần quan trọng thông qua các giá trị của kiến trúc đô thị. Khu Phố Cổ là thành phần quan trọng trong hệ thống trung tâm lịch sử của Hà Nội - nơi tập trung cao nhất mọi hoạt động của đô thị, là hình ảnh đại diện các giá trị văn hoá đô thị của Hà Nội. Các giá trị văn hoá của khu Phố cổ Hà nội được nhận biết đồng thời qua các đặc trưng hình thái kiến trúc, cảnh quan đô thị và qua ý nghĩa tượng trưng của kiến trúc đô thị vốn được tạo thành bởi phương thức tổ chức, đặc thù về hoạt động kinh tế xã hội và văn hoá của cộng đồng dân cư. Hai yếu tố này luôn đi cùng nhau và kết hợp hữu cơ với nhau để tạo nên giá trị thống nhất của kiến trúc đô thị. Giá trị hình thái và ý nghĩa tượng trưng của kiến trúc đô thị vừa tác động, vừa bị chi phối bởi trạng thái tâm lý của con người khi sử dụng và nhân thức về không gian kiến trúc đô thị. Rõ ràng, yếu tố tượng trưng hay cao hơn là yếu tố biểu tượng của kiến trúc liên hệ chủ yếu đến di sản văn hoá và kiến trúc, tạo nên ấn tượng sâu sắc trong cảm nhận các giá trị của kiến trúc. Do đó có thể nói, đặc trưng văn hoá đô thị Hà Nội dễ dàng được cảm nhận trong cấu trúc chức năng và không gian 36 phố phường, trước hết thông qua các công trình kiến trúc có giá trị lịch sử cùng những huyền thoại lối sống và nhiều biểu thị văn hoá vốn trải thời gian đã được định hình. Đặc điểm dân gian thể hiện rất rõ trong cách tổ chức khu phố trên cơ sở đơn vị phường nghề với phương thức sản xuất, tổ chức xã hội và các thiết chế văn hoá, tín ngưỡng và đương nhiên là cả cách thức xây dựng có nguồn gốc từ nông thôn. Phố xuất hiện sau phường do nhu cầu trao đổi thương nghiệp tăng dần. Phố là bộ phận của phường, thuộc về phường và là bộ mặt của phường. Đồng thời phố là thành phần liên kết các phường khác nhau trong mối quan hệ hỗ tương và tạo nên một mạng lưới. Đó là cấu trúc đô thị. Sự hình thành tuyến phố quyết định sự hình thành ô phố. Sở dĩ mạng lưới đường phố và ô phố trong khu 36 phố phường có kích thức nhỏ và không đồng đều về hình dạng bởi vì quá trình hình thành và phát triển phường, phố là quá trình mang tính tự phát, phát triển theo nhu cầu, dường như không dự kiến trước và hoàn toàn bị chi phối bởi điều kiện địa hình tự nhiên. Các tuyến phố hình thành từ chính những con đường nhỏ vốn kiêm chức năng thuỷ lợi thường có hình dáng tự nhiên, quanh co. Việc hình thành các đơn vị phường đã tác động tới kiến trúc của khu Phố Cổ. Chúng ta có thể thấy điều này qua sự phát triển của các nhà hình ống đó là nhà dài có mặt tiền hẹp gọi là nhà ở hàng phố, phòng quay ra phố dùng làm cửa hàng và làm hàng. Nhà ở trong khu “36 phố phường”có đặc trưng mặt tiền hẹp và chiều sâu nhà rất dài vì thế có tên gọi phổ biến là “nhà hình ống”. Chúng cũng còn được gọi là “nhà ở hàng phố”. Phần lớn các kiểu nhà truyền thống mà ngày nay chúng ta vẫn có thể thấy trong khu vực phố cổ được xây từ cuối thế kỷ XIX hoặc được xây lại vào đầu thế kỷ XX. Nhà hình ống quay mặt ra mặt phố, chiều rộng trung bình của mặt tiền từ 2m tới 4m, trong khi đó chiều dài có thể từ 20m tới 60m và có một số trường hợp lên tới 150m. Nhà có nhiều lớp và cách nhau bằng những sân trong, các sân trong thông thoáng để lấy ánh sáng tự nhiên. Sân trong còn là nơi diễn ra các hoạt động đa năng của nhà. Ngoài sân trong, trong các ngôi nhà này trước đây còn có các mảnh vườn nhỏ. Trong khu phố cổ ngoài nhà ở buôn bán của dân cư hiện còn 54 ngôi đình, 6 chùa, 22 đền, 3 miếu tổng cổng là 85 công trình tôn giáo tín ngưỡng trên khu vực khoảng 100ha, có thể nói mật độ công trình tôn giáo tín ngưỡng trong khu Phố Cổ thuộc loại cao. Phần lớn các công trình này có lịch sử khởi dựng cũng đã lâu mang dấu ấn của các thời xưa. Với lối kiến trúc truyền thống dựng từ gỗ, gạch với các hệ kết cấu vì kèo gỗ của nhiều thời kỳ, các không gian đình, đền, chùav.v... này là các không gian tâm linh mang tính cộng đồng, nó có mối quan hệ vô hình với các không gian tâm linh riêng của từng ngôi nhà, trong khu 36 phố phường. Các không gian văn hoá cổ này từ khi khởi dựng đến nay vẫn đang hoạt động, và ngày nay với xu thế quay về với triết học phương Đông, coi trọng tâm linh, các không gian văn hoá cổ đã góp phần tạo nên đặc trưng của khu 36 phố phường. |
Tik Tik Tak
Bài viết cuối
(♥ Góc Thơ ♥)
Truyện cười
Thời tiết
Tỷ giá
Giá Vàng
Thực đơn người xem
Xem theo danh mục
Xem theo danh mục:
Blog chưa có danh mục nào. Tìm kiếm: |