Rồi người đi Như gió Như mây Vào chòng chành quên lãng Nỗi đau chật hẹp Hay thênh thang Sao cứ đi là vấp phải nỗi buồn?
Rồi người đi Tiếng vĩ cầm thời gian réo rắt Ly cà phê không gian đắng ngắt Từng vệt son môi Từng móng tay màu Xin nhặt lại trao trả em Tình yêu của bóng đêm trống rỗng.
Rồi người đi Dù con đường trước mắt ẩn chìm không ánh sáng Khu vườn hoang không còn trái cấm Những cơn bão đến không hề dự đoán Những hố tử thần chập chờn không biển báo Xếp hàng Chực chờ gào thét…
Rồi người đi Tìm hướng mặt trời mọc Gỡ vầng trăng Niềm Tin Hái chùm sao Hy Vọng Soi đường Mặt đất ấm dần Bình minh!
(Trang web văn học Hội Nhà Văn tp.HCM 31 tháng 12 năm 2011)
Em về đâu Để ngày Valentine thành ngày khổ hạnh? Rót nắng vào ly Anh uống cạn cùng nỗi nhớ Hạnh phúc là mây bay Anh nhốt mãi chẳng được vào bình.
Tình yêu không tin vào những lời xin lỗi? Lời xin lỗi đầu Anh ngoa dụ bằng những câu thơ cổ tích Bằng huyền sử những giấc mơ... Lời xin lỗi lần hai Tếu táo như một trò đùa Em bật khóc vì bỗng dưng thành con búp bê ngốc nghếch!
Căn phòng từ ngày em đi Cô đơn phủ màu tang trắng Những nốt trầm sám hối cứ âm vang Anh nhặt lên ký ức Ký ức trôi tuột khỏi kẻ ngón tay Anh cầm lên bóng hình em Bóng hình em chênh chao bay mất.
Tình yêu không tin vào những lời xin lỗi Ngái ngủ hời hợt Tình yêu không tin vào những lời xin lỗi Nồng nàn đối phó... Tình yêu là em Nước mắt cũng là em Xung đột đen Đối thoại trắng.
Không em Ngày Valentine có hoa hồng Hoa hồng chẳng ngát hương Không em Ngày Valentine có họa mi Họa mi buồn không hót Không em Ngày Valentine có socola Socola bỗng đắng đến tê người.
Tình yêu bỏ ta đi Khu vườn hoa chỉ còn có cỏ Những nỗi đau cô đơn đến bên ta xếp hàng đợi cư trú... Ta cười với ta Giữa sa mạc cát nóng Ta gào thét với ta Dưới nắng hoàng hôn cháy bỏng Ngày Valentine buồn Một mặt trời rực lửa Hoang vu.
Lớp học bỗng lung linh Viên phấn trắng đưa chúng em về những tòa thành cổ Có lá cờ Đại Việt Có tiếng binh khí chạm nhau Có những vị vua dẫn đầu đoàn quân xông vào chém giặc Vọng tiếng sóng Bạch Đằng Vang bài ca Sát Thát Có tiếng thét vang của những anh hùng bất khuất: “Ta thà làm quỷ nước Nam…”
Từng dòng sử oai hùng Bập bùng dưới ánh đuốc mấy ngàn năm Có cả hoa hồng Cùng những giọt nước mắt Những người con Bách Việt mình rồng vai trần chân đất Ôm tiễn nhau… Người theo mẹ Kẻ theo cha Lũ lượt xuống biển Lên rừng…
Bài sử đầu cô dạy có hương vị bánh chưng Có dưa hấu, có trầu cau Có từng hồi trống đồng vọng vang dòng sông chín cửa Có Thánh Gióng ra quân Có ngựa sắt thần thét phun ra lửa Có mẹ tiễn con đi Có những Hòn Vọng Phu Mòn mỏi hóa đá Trông chồng.
Trang sử thuở hồng hoang cô lần giở giữa nắng hồng Đất Lĩnh Nam hổ dữ đứng từng bầy Rừng Phong Châu sấu đói nằm từng lũ Ầm ầm tiếng voi gầm Rầm rầm tiếng ngựa hí Hò phá núi… Những Sơn Tinh cùng những bàn chân Lạc Việt lội bùn lóp ngóp Những con số đầy bụi thời gian trở mình thức giấc Đứng dậy xếp hàng Cùng cô kể Chuyện ngày xưa…
Nửa đời Nhỏ lệ làm sông Thuyền yêu chèo mãi Vẫn không thấy bờ.
Với giọng thơ lục bát nhưng Thanh Trắc Nguyễn Văn đã vận dụng lối ngắt nhịp biến 2 câu thơ lục bát 6- 8 thành 2- 4 - 4 - 4 để tạo nên một âm điệu vừa trữ tình vừa khoắc khoải bi thương. Yêu như trong bài thơ thì làm sao giữ gìn hạnh phúc được? Yêu là phải có nghị lực vươn lên. Tôi nhớ một bài thơ khác cũng của Thanh Trắc Nguyễn Văn, đã có một ý thức và một cách xử lý trong tình yêu hoàn toàn khác hẳn:
Cầm lên một trái khổ qua Khổ mà kêu khổ đúng là khổ thôi Yêu nhau leo núi vượt đồi Chia bùi xẻ đắng khổ rồi cũng qua! (Trái khổ qua – Thanh Trắc Nguyễn Văn)
Bi kịch trong tình yêu chính là sự ủy mị, sướt mướt. Nước mắt chỉ làm người ta thương hại chứ không giữ được tình yêu. Khoảng những năm 1980 Liên Xô có bộ phim nổi tiếng Mat-xcơ-va không tin vào những giọt nước mắt. Nay qua bốn câu thơ đầu của bài thơ Nửa đời nên có thêm một thành ngữ mới: ”Tình yêu không giữ được từ những giọt nước mắt”. Hình ảnh và hình tượng bài thơ rất đắt: ”Nhỏ lệ làm sông”, ”Thuyền yêu chèo mãi/ Vẫn không thấy bờ” gợi đến những hình ảnh đã có từ rất lâu trong tình yêu: ”biển tình”, ”biển ái” nhưng nghiệt ngã hơn rất nhiều. Cái giá phải trả của một người không có ”bản lĩnh” trong tình yêu cũng thật đáng thương ”thuyền yêu chèo mãi vẫn không thấy bờ”. Thanh Trắc Nguyễn Văn đã khéo léo dùng tu từ và nghệ thuật đúc kết cho người đọc một kinh nghiệm trong tình trường mà chắc có lẽ anh đã từng ít nhiều trải nghiệm qua.
2. Bi kịch thứ hai: Bi kịch của những người muốn làm ”nhà thơ”
Nửa đời Xếp chữ làm thơ Chữ “tình” đi mất Bỏ “khờ” chèo queo.
Chưa bao giờ nước ta lại có rất nhiều người làm thơ như hiện nay. Người làm thơ thì nhiều nhưng những nhà thơ đúng nghĩa thì lại rất ít. Thơ phải viết ra từ cảm xúc, từ nghệ thuật tinh tế. ”Sáng tác” thơ mà xếp chữ cho ra một bài thơ có vần, có điệu như quay một khối rubik thì còn gì là thơ! Đó là ”thợ thơ” thì đúng hơn! Tôi còn nhớ có lần nghe một ”nhà thơ ” tự phong ở một câu lạc bộ thơ nọ, tuổi cũng đã lục tuần, lên hội trường đọc những câu thơ ngô nghê như sau:
Sáng nay mùng tám tháng ba Chào mừng đại hội các bà các cô...
Nghe thật tức cười nhưng cũng thật giật mình vì nghe đâu ”nhà thơ” này đã xuất bản được hơn tám tập thơ và hiện đang chuẩn bị xuất bản tập thơ thứ chín! Thế mới hay làm thơ thì dễ nhưng làm thơ để đi được vào lòng người thì khó vô cùng. Cái giá phải trả của những người làm thơ loại này là đến một lúc nào đó họ mới hiểu ra mình đã quá dại dột. Họ làm thơ ”tình” nhưng chỉ để người ta xem xong và cười, có người còn xấu miệng hơn bảo họ là những kẻ háo danh. Đó chính là chữ ”khờ” của những ”nhà thơ” không có thực tài. Tuy nhiên đây là bi kịch rất dễ thương. Họ ”khờ” vì sự đam mê nghệ thuật quá đáng của mình. Có thể sự đam mê đó gây phiền nhiễu cho nhiếu người khác nhưng không hề gây ra nguy hại nghiêm trọng cho xã hội. Thanh Trắc Nguyễn Văn đã dùng tu từ nhân cách hóa cho chữ ”tình” và chữ ”khờ” để biểu hiện một cách thật sinh động và cũng thật hài hước:
Chữ “tình” đi mất Bỏ “khờ” chèo queo
Nhìn chung Thanh Trắc Nguyễn Văn đã khá thành công khi anh tạo nên một tiếng cười vui nhưng đầy cảm thông cho loại bi kịch đáng yêu này.
3. Bi kịch thứ ba: Bi kịch trong kinh doanh
Nửa đời Bán mảnh trăng treo Tháng năm rơi trắng Cái nghèo còn mang.
Đã là nhà thơ hầu hết ai cũng có chút bệnh ngông! Ở Trung Quốc có nhà thơ Lý Bạch nhảy xuống dòng sông ôm trăng mà chết. Ở Việt Nam ta thì có nhà thơ Hàn Mặc Tử cũng đòi bán trăng trên trời! Nhiều người khác cũng thế, họ kinh doanh rất nhiều thứ và nhiều người trong số đó đã phải cam chịu thất bại, chẳng hạn như những người ”kinh doanh thơ”. Trong một bài thơ trào lộng nhà thơ Tản Đà cũng đã từng kể chuyện ông gánh ”đống thơ ế” lên bán chợ trời!
Ở đây Thanh Trắc Nguyễn Văn dùng tu từ ẩn dụ ”mảnh trăng treo” để nói lên những cái gì rất đẹp và rất nghệ thuật. Nhưng cái đẹp, cái nghệ thuật ấy chưa chắc đã kiếm ra tiền! Kết quả là gì? Là hơn ”nửa đời” người kinh doanh, đầu tư nhưng trắng tay vẫn hoàn trắng tay! Họ hoàn toàn hiểu những điều gì họ đã và đang làm nhưng chưa chắc họ đã nhận được sự đồng cảm của những người thân. Có những người luôn bị vợ hoặc con cái chì chiết là ”vô dụng” hoặc nặng nề hơn ”là đồ ăn hại” !
Câu thơ thật phũ phàng:
Tháng năm rơi trắng
Không sinh được lợi lại còn bị mất thời gian:”tháng năm rơi”. Càng đọc, càng ngẫm nghĩ lại càng thêm chua xót. Thật đúng là ”Cơm áo không áo không đùa với khách thơ” (Thơ Xuân Diệu).
4. Bi kịch thứ tư: Bi kịch cho những người đi tìm hạnh phúc
Nhân vật trong bài thơ hình như yêu rất nhiều. Anh ta luôn mơ đến những mối tình cao và xa đối với những nàng hoa hậu chân dài. Những chuyện tình đó thật phù phiếm và không thực. Thanh Trắc Nguyễn Văn đã dùng hình ảnh rất sinh động để diễn tả :
Nhặt giấc mơ hoang
Vâng đúng vậy, loại tình yêu đơn phương chỉ một chiều, không cân xứng kiểu như Trương Chi yêu Mỵ Nương thì quả thật đúng là một loại bi hài kịch xã hội. Đó là những ”giấc mơ hoang tưởng” không thực tế.
Thanh Trắc Nguyễn Văn đã dùng một từ rất ”đắc” đó là ”vấp”! "Vấp” chỉ xảy ra khi người ta không chú ý và giúp con người thật sự được ”bừng tỉnh”! Đã vậy, ở đây còn lại là ”vấp” vào nỗi ”nhớ”. Thật rất mới và rất lạ! Nhờ ”vấp” mà nhân vật trữ tình trong bài thơ chợt ”nhớ” đến một người con gái vẫn còn yêu thương mình thật lòng. Nhân vật vội vã ”bàng hoàng” đi ”tìm em”. Nhưng dù sao cũng đã hơn ”nửa đời” người rồi, không biết ”người ấy” đã mất hay vẫn còn trên dương thế? Nếu vẫn còn liệu người ấy có còn chờ đợi hay đã sang thuyền khác mất rồi? Than ôi!
Ngày xưa hai đứa chiều chiều Rủ nhau chơi hái thật nhiều hoa mua Hoa mua em bán tôi mua Tiền là lá rụng cuối mùa vàng bay Rồi tôi kết lá thành dây Kết hoa vào lá, kết ngày vào đêm Kết thành hoa cưới trao em Vòng hoa tím mái tóc mềm bến sông Cô dâu cười ửng má hồng Dắt tay chú rể chạy rong khắp làng…
Sao giờ mây trắng sang ngang Hoa mua nở tím rụng sang tay người Thuyền còn một bóng trôi xuôi Tình còn một đám lá rơi giữa dòng Mẹ buồn đám cưới em đông Xe hơi chín chiếc, qua sông chín đò… Ngược thuyền về với tuổi thơ Bến sông vẫn tím đôi bờ hoa mua "Hoa mua ai bán mà mua" Để tôi vớt lá tìm mùa thu xa?
(Báo Làm Bạn Với Máy Vi Tính - Khoa Học Phổ Thông số 452, ngày 24.4.2012)