Thế Giới Giải Trí

CHBTNSB
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31

Thông tin cá nhân

ghost_boy1412
Sinh nhật: 8 Tháng 10 - 1991
Yahoo: ghost_boy1412  
Trạng thái: User is offline (Vắng mặt)
Thêm vào nhóm bạn bè
Gửi tin nhắn



   Trong: Vi Tính - Internet
 
Cụ bà tấn công kẻ trộm bằng “món” karate học được trên TV Ngoai ngu - Tieng Anh - Tin hocMột cụ bà 75 tuổi ở Italia đã đánh bại một tên trộm với món võ karate bà học được trên TV.

Cụ bà Anica D sống tại ngôi làng Popeni thuộc hạt Vaslui hào hứng kể lại cho cảnh sát rằng khi bà đang ngủ thì một tên đạo trích đã lẻn vào nhà và tấn công bà.

Bà đã hét lớn để kêu cứu nhưng chẳng thấy ai đến giúp cả, có lẽ vì đêm đã khuya và mọi người ngủ quá say. Không còn cách nào khác bà đành giở món võ karate mà bà vô tình học được tại một show truyền hình dạy con người cách tự vệ.

Anica đã thành công trong việc khống chế tên trộm và gọi cảnh sát đến bắt tên gian tặc. Tên trộm 30 tuổi đã bị kết tội trộm cắp và có âm mưu cưỡng bức.

   Trong: Vi Tính - Internet
 
Ngoai ngu - Tieng Anh - Tin hocNhững ngày qua, con sâu lây lan qua Yahoo! Messenger (YM) với tốc độ khủng khiếp mang tên “GaiXinh”, “xRobots” hay “RemyWorm”... (theo cách gọi khác nhau của các chuyên gia) đã làm xôn xao phần lớn người dùng Internet.

Trung tâm an ninh mạng BKIS cho rằng trên 10.000 máy tính đã nhiễm, trong đó có nhiều người cho đến giờ vẫn chưa tận diệt được con sâu này...

Tuy nhiên, dường như tâm lý “sau cơn mưa trời lại sáng” và “mất bò vẫn chưa lo làm chuồng” vẫn còn hằn sâu nên nhiều người mặc dù cuống lên khi bị nhiễm nhưng cũng dễ lãng quên ngay sau đó. Khi một số trung tâm an ninh mạng đưa ra cách “chạy chữa” thì mọi người thở phào và quên ngay con virus, bởi xét cho cùng mỗi ngày người ta phát hiện bao nhiêu virus trên máy tính.

Nhưng thỉnh thoảng chúng ta vẫn nghe tin: “Vài trăm nghìn thông tin cá nhân của nhân viên Tập đoàn HP bị đánh cắp”, hay: “Rò rỉ thông tin về nhà máy điện hạt nhân”... được loan báo, nhưng có lẽ ít ai ngờ rằng nguyên nhân phần lớn là do những virus và “sâu” kiểu này.

Với nguyên lý chung là lợi dụng sự sơ hở của người dùng khi sử dụng các công cụ thao tác trên Internet (lướt web, email, phần mềm nhắn tin nhanh - IM), lợi dụng sổ địa chỉ và niềm tin của bạn bè dành cho nạn nhân... để phát tán trên diện rộng bằng cách cài một chương trình ẩn (có thể gọi là phần mềm gián điệp “Spyware”) vào các máy tính bị lây nhiễm. Sau khi thành công, mạng những máy tính này sẽ bị điều khiển bởi kẻ thủ ác mà chủ nhân không hề hay biết. Câu chuyện sau đó có thể diễn ra theo các kịch bản sau đây:

1. Ăn cắp thông tin: Spyware có thể mở các cửa sau (backdoor) để hacker xâm nhập chiếm quyền điều khiển máy tính. Mọi hành vi sau đó, từ theo dõi mọi thao tác của chủ nhân, ăn cắp mật khẩu hoặc thông tin cá nhân, sao chép thông tin, phá hủy dữ liệu hoặc toàn bộ hệ thống... đến tạo bàn đạp để hacker xâm chiếm toàn hệ thống mạng nội bộ của tổ chức... đều nằm trong tầm tay.

Câu chuyện sẽ trở nên nghiêm trọng hơn nếu các máy tính đó thuộc mạng lưới của các đơn vị sản xuất kinh doanh, tài chính - ngân hàng hay các cơ quan nhà nước hoặc có liên quan đến an ninh quốc gia; chủ nhân thật sự của các máy tính đó sẽ vô tình trở thành kẻ tiếp tay cho các hành vi xấu.

2. Bàn đạp tấn công: Những máy tính bị điều khiển có thể được dùng để phát động những cuộc tấn công từ chối dịch vụ DDoS (vốn đã bị các hacker chân chính “khai tử” từ lâu vì tính tàn bạo và hèn hạ của nó) vào các máy chủ trên Internet bằng cách ra lệnh cho các máy tính này liên tục gửi hàng trăm hoặc hàng nghìn yêu cầu tới nạn nhân.


Điều này vừa làm các máy tính đó giảm hiệu suất rõ rệt (chạy chậm, ì ạch...), làm tốn băng thông và lãng phí tài nguyên Internet quốc gia, vừa làm máy chủ nạn nhân bị ngập lụt bởi các yêu cầu giả dẫn đến mất khả năng xử lý. Tổng thiệt hại tính bằng vật chất cho toàn xã hội và nạn nhân là không thể tính hết được!

Trên lý thuyết, một mạng lưới 30.000 máy tính “ma” bị bí mật điều khiển như thế có thể tấn công đến chết bất kỳ một hệ thống máy chủ nào trong 10-30 phút. Thực tế những con sâu như Blaster, MyDoom, Sasser, Sobig... những năm 2003 - 2004 đã từng là nỗi kinh hoàng của những hệ thống mạng khổng lồ của Google, Microsoft, Windows Update... và làm bầu trời bảo mật những năm đó trở nên hết sức u ám với thiệt hại ước tính lên đến 38 tỉ USD.

Đặc biệt nghiêm trọng nếu những công cụ như thế được sử dụng vì mục đích cạnh tranh không lành mạnh hoặc vi phạm an ninh quốc phòng. Việc ngăn chặn các cuộc tấn công là hầu như không thể, và phát hiện nguồn gốc phát tán và ngăn chặn lây nhiễm cũng cực kỳ khó khăn vì nó phụ thuộc sự hiểu biết và ý thức của người dùng.

Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy: chỉ có thể ngăn ngừa bằng pháp luật, sử dụng các án phạt hình sự như những tội danh đem lại hậu quả tương đương mới đủ sức răn đe. Thật tiếc là ở VN hiện chưa có bất kỳ chế tài nào mạnh tay đối với hành vi này, do vậy những kẻ thủ ác càng có cơ hội tự do lộng hành.

Theo phân tích của các trung tâm an ninh về virus vừa qua cho thấy người viết nó có trình độ tuy không cao (chỉ đơn giản là “Việt hóa” những mã nguồn virus được phát tán trên mạng) nhưng đã “thành công” khi lợi dụng công cụ Chat YM vốn rất phổ biến và được tin tưởng để phát tán virus. Đây là một “sáng tạo” vì người dùng hiện nay phần lớn đã có ý thức không mở file đính kèm trong các email lạ.

Việc xác định chính xác kẻ phát tán, điều tra động cơ sâu xa và áp dụng biện pháp răn đe cần thiết để làm gương và thể hiện kỷ cương pháp luật có thể vươn vào tận thế giới ảo là yêu cầu nghiêm túc và bức thiết. Và để bảo vệ mình trước những nguy hiểm trên mạng, người dùng Internet nên hết sức cẩn thận đối với các đường link gửi qua YM, tuyệt đối không download nếu link đó dẫn đến những file có đuôi là: .exe, .vbs, .pif.

NHẬT THƯ

   Trong: Vi Tính - Internet
 
Ngoai ngu - Tieng Anh - Tin hocNgay cả khi bạn có công cụ tìm kiếm mạnh mẽ như Google, bạn vẫn sẽ phải lâm vào tình trạng “đãi cát tìm vàng” giữa hằng hà thông tin trên Internet nếu như bạn không biết chọn từ khóa đúng, cũng như áp dụng các tùy chọn mà Google đặt ra để hỗ trợ quá trình tìm kiếm.
Bài viết này chỉ tập trung vào cách tìm kiếm kết hợp toán tử đặc biệt. Đây là một phương thức để Google nhận biết bạn muốn hạn chế việc tìm kiếm trong những thành phần hay những đặc điểm nhất định của các trang web.

Toán tử OR. Google cho phép dùng từ khóa OR (OR viết chữ in) giữa các từ khóa cần tìm và kết quả thu được là các trang web có chứa ít nhất một từ trong tất cả cá từ khóa đó. Ví dụ bạn muốn tìm tất cả các tài liệu liên quan tới một trong hai (hoặc cả hai) chuẩn IEEE 802.11a và IEEE 802.11b thì bạn có thể dùng từ khóa: 802.11a OR 802.11b.

Toán tử filetype. Phần mở rộng của thông tin cần tìm cho phép bạn tìm thông tin theo kiểu tập tin cụ thể. Ngoài các file .txt, .html, hiện nay Google còn có thể tìm kiếm thông tin bên trong nhiều loại file khác nhau từ .pdf, .doc cho đến .flash, .swf. Rất nhiều người thường sử dụng từ khóa này để tìm tài liệu, sách điện tử ebook. Ví dụ nhập từ khóa “wep security” filetype:pdf vào Google, bạn sẽ có được nhiều tài liệu rất hay về bảo mật WEP trong mạng không dây. Ngoai ngu - Tieng Anh - Tin hoc

Ngoai ngu - Tieng Anh - Tin hocToán tử Intitle. Dùng Intitle cho phép tìm kiếm thông tin dựa theo titles của trang web. Lưu ý: Title luôn phản ánh nội dung của trang web nên với cách tìm kiếm này sẽ có hiệu quả hơn rất nhiều cách dùng từ khóa đơn giản. Muốn tìm một ít sách có tiêu đề là delphi thì bạn chỉ cần nhập vào Google dòng intitle: “delphi ebook”, sau đó bạn sẽ có một loạt các cuốn sách thú vị về delphi.

Intitle: Từ khóa 1_ từ khóa 2 ... Cách này sẽ tìm ra tất cả các trang web có titles bắt buộc có chứa từ khóa 1 và tiêu đề hoặc nội dung của các trang web kết quả có chứa từ khóa 2. Trở lại ví dụ trên, bạn có thể dùng từ khóa intitle: “Delphi ebook”+“tab”, có kết quả là những trang web có tiêu đề là delphi và nội dung có chứa tab. Chú ý: Ở đây bạn phải dùng dấu ngoặc kép vì giữa delphi và ebook có khoảng trống, nếu không dùng dấu ngoặc kép thì sẽ cho kết quả là các trang web trả về có tựa đề delphi còn nội dung là ebook và tab.

Toán tử site:tên miền. Toán tử này cho phép bạn hạn chế kết quả tìm kiếm trong các vùng tên miền ở cấp cao nhất, được dùng chủ yếu trong trường hợp bạn muốn tìm một thông tin trong một trang web hay một tên miền nào đó. Ví dụ bạn muốn tìm các bài viết về bảo mật trong trang web http://www.quantrimang.com, bạn chỉ cần nhập từ khóa “Bảo mật” site:http://www.quantrimang.com. Ngoài ra, nếu muốn tìm các bài viết về bảo mật trong tất cả các trang web của Việt Nam, bạn chỉ cần thay thế “Bảo mật” site:vn.

Ngoai ngu - Tieng Anh - Tin hoc
Toán tử info:URL. Cho phép bạn tìm thấy tất cả các thông tin về trang web mà bạn quan tâm. Ví dụ như muốn biết tất cả các thông tin có liên quan tới trang web www.quantrimang.com như trang lưu trữ, các trang web tương tự, các trang có liên kết đến, hay các trang có từ khóa này thì bạn nhập từ khóa info:www.quantrimang.com vào Google.

Ngoai ngu - Tieng Anh - Tin hoc
Toán tử link:URL. Cho phép tìm kiếm các trang thông tin có liên kết tới trang bạn cần tìm (tức là liên kết tới URL bạn đã nhập).

Toán tử related:URL. Cho phép tìm kiếm các trang web có thông tin tương tự một trang web bạn nhập.

Toán tử inurl:URL. Cách này sẽ tìm các trang web có địa chỉ URL bắt buộc chứa các từ khóa chỉ định. Đây là một kiểu tìm kiếm nên dùng trong trường hợp bạn không nhớ chính xác tên một URL nào đó. Cũng giống trường hợp toán tử intitle, bạn cũng có thể dùng inurl với 2 hay nhiều từ khóa như sau inurl:từ khóa 1_ từ khóa 2 ... sẽ tìm trang web có địa chỉ URL bắt buộc chứa từ khóa 1 và nội dung trang web phải có chứa từ khóa 2.

Trên đây là một số câu lệnh giúp bạn có thể sử dụng Google một cách chuyên nghiệp và hiệu quả, tuy nhiên bạn có thể tìm được một danh sách đầy đủ hơn các thành phần câu lệnh của nó tại www.google.com/help/operators.html.

Võ Nhân Văn

   Trong: Vi Tính - Internet
 
Hai mươi năm có lẽ là khoảng thời gian đủ để xây dựng một công ty thành công, song để xây dựng một đế chế hùng mạnh thì tưởng như là không thể. Ấy thế mà toàn thế giới đang chứng kiến và ngưỡng mộ điều không thể đó với cái tên Microsoft.

Với doanh thu năm vừa qua đạt 40 tỷ USD cùng 84 ngàn nhân công làm việc tai 85 quốc gia và cùng lãnh thổ, Microsoft là công ty sản xuất phần mềm lớn nhất thế giới. Trong hơn 20 năm, dưới bàn tay chèo lái của chủ tịch Bill Gates, Microsoft đã đi từ hết thành công này đến thành công khác, trong đó mỗi thành tựu đều ghi lại dấu mốc trong lịch sử ngành máy tính hiện đại.
Ngoai ngu - Tieng Anh - Tin hoc - Từ trái sang: Steve Wood, Bob Wallace, Jim Lane. Bob O'Rear, Bob Greenberg, Marc McDonald, Gordon Letwin.
Hàng duới: Bill Gates, Andrea Lewis, Marla Wood, Paul Allen. 7/12/1978.

1. Thành lập
Microsoft được thành lâp năm 1975 bởi William H. Gates, III và Paul Allen, hai người bạn từ thời niên thiếu cùng có chung niềm đam mê đối với lập trình máy tính. Ngày 1-1-1975, sau khi đọc tờ tạp chí Điện tử phổ thông đăng tin về việc sản xuất máy tính Altair 8800, Bill Gates - đang là sinh viên năm thứ hai của trường Harvard - đã gọi cho nhà sản xuất MIST (Micro Instrumentation and Telemetry Systems) đề xuất viết ngôn ngữ lập trình BASIC cho máy này.

Gates chẳng có một trình thông dịch cũng như một hệ thống Altair nào. Anh và Paul đã phải tranh thủ làm việc 8 tuần trên máy tính của trường để hoàn thành bản demo của BASIC- ngôn ngữ lập trình đầu tiên được viết cho máy tính cá nhân. Kết quả là bản demo đã chạy tốt và được MIST chấp nhận. Sau đó, Paul Allen gia nhập MIST, trở thành giám đốc phần mềm; còn Bill Gates, nhận ra giá trị to lớn của ngành phát triển phần mềm từ thành công ban đầu đó, anh hiểu rằng thời cơ của mình đã đến.

Bill gates sinh ngày 28, tháng 10 năm 1955 taị Seattle với hai người chị. Cha William H. Gates II, luật sư; mẹ Mary gates, giáo sư đaị học Washington.

Học tiểu học ở trường công lập và tư thục Lakeside School. Bill Gates khám phá phần mềm vi tính từ năm 13 tuổi.

Năm 1973, gates vào trường đaị học Harvard. Chưa tốt nghiệp đại học.

Năm 1975 cùng bạn Paul Allen bắt đầu Microsoft.

Bill quyết định bỏ học và ngày 4-4-1975, Micro-soft (tên viết tắt của Microcomputer software - Phần mềm cho máy tính cá nhân) ra đời tại Albuquerque, New Mexico. Không ít bạn bè, người thân khi đó đã chỉ trích việc bỏ học của Bill, nhưng cho tới bây giờ , thực tế đã chứng minh được rằng Bill đã đúng. Nhiều thanh niên Mỹ bắt chước con đường của Bill, kể cả việc bỏ học giữa chừng.

Ngày 29-10-1975, cái tên Microsoft (không có dấu gạch ngang) lần đầu tiên xuất hiện trong một bức thư Bill Gates gửi cho Paul Allen. Ngày 26-10-1976, Microsoft chính thức được đăng kí thương hiệu như chúng ta biết ngày nay.

Những khách hàng đầu tiên của Microsoft phải kể đến hãng sản xuất máy tính non trẻ Apple, nhà sản xuất máy tính PET Commodore và Tandy Corporation chuyên về laọi máy tính Radio Shack TRS-80. Năm 1977, Microsoft cho ra mắt sản phẩm ngôn ngữ thứ hai Microsoft Fortran. Cũng trong năm này, Bill Gates chính thức trở thành chủ tịch của Microsoft Corp, còn Paul Allen là phó chủ tịch.

2. MS-DOS

Năm 1979, Gates và Allen dời công ty tới Bellevue, Washington (Công ty chuyển tới trụ sở hiện nay ở Ređmon năm 1986). Năm 1980 IBM chon Microsoft viết hệ điều hành cho máy tính cá nhân của họ. Dưới áp lực về thới gian, Microsoft đã mua lại 86-DOS từ một công ty nhỏ tên là Seattle Computer Products với giá 50000 đola, rồi cải tiến nó thành MS-DOS (Microsoft Disk Operating System)

Là một phần trong hợp đồng với IBM, Microsoft được phép cấp phép sử dụng hệ điều hành này cho các công ty khác. Tới năm 1984, Microsoft đã cấp phép sử dung MS-DOS cho 200 nhà sản xuất máy tính cá nhân, biến MS-DOS trở thành hệ điều hành chuẩn cho máy PC và giúp Microsoft có bước phát triển vượt bậc trong thập kỉ 80. Năm 1983, Allen rời khỏi công ty nhưng vẫn có chân trong ban giám đốc tới năm 2000, và tiếp tục là cổ đông chính của Microsoft.

3. Phần mềm ứng dụng

Cùng với thành công của MS-DOS, Microsoft bắt đầu phát triển các phần mềm ứng dụng cho máy tính cá nhân. Năm 1982, họ cho ra đời Multiplan, một chương trình bảng tính, năm tiếp theo là chương trình xử lý văn bản, Microsoft Word. Năm 1984, Microsoft là một trong số ít các công ty phần mềm phát triển các ứng dụng cho máy Macintosh - máy tính các nhân do Apple Computer sản xuất. Những phần mềm này bao gồm Word, Excel và Work (Một bộ phần mềm tích hợp) đã đạt được thành công to lớn.

4. Windows
Năm 1985, Microsoft cho ra đời sản phẩm Windows, một hệ điều hành sử dụng giao diện đồ hoạ người dùng với những tính năng mở rộng của MS-DOS trong nỗ lực cạnh tranh với Apple computer. Windows khởi đầu được phát triển cho những máy tính tương thích với IBM (dựa vào kiến trúc x86 của Intel), và ngày nay hầu hết mọi phiên bản của Windows đều được tạo ra cho kiến trúc này (tuy nhiên Windows NT đã được viết như là một hệ thống xuyên cấu trúc cho bộ xử lý Intel và MIPS, và sau này đã xuất hiện trên các cấu trúc PowerPC và DEC Alpha.

Sự phổ biến của Windows đã khiến bộ xử lý của Intel trở nên phổ biến hơn và ngược lại. Năm 1987, Windows 2.0 ra đời với cách làm việc được cải tiến và hình thức mới hơn. Năm 1990 là phiên bản Windows 3.0 mạnh hơn , rồi kế đó là Windows 3.1 và 3.11. Những phiên bản bày được cài sẵn trong hầu hết các máy tính cá nhân nên đã nhanh chóng trở thành đệ điều hành được sử dụng phổ biến nhất. Trong năm này, Microsoft đã trở thành hãng sản xuất phần mềm má tính đầu tiên đạt kỉ lục 1 tỉ đola doanh thu hàng năm.

Khi sự thống trị của Microsoft trên thị trường hệ điều hành cho máy tính cá nhân ngày càng lớn, thì cũng là lúc công ty này bị buộc tội kinh doanh độc quyền. Năm 1990, Uỷ ban thương mại liên bang (FTC) bắt đầu điều tra Microsoft với cáo buộc có hành vi độc quyền, nhưng họ không đi được đến một kết luân cụ thể nào và đành bỏ dở vụ việc. Tuy nhiên bộ tư pháp Mỹ vẫn âm thầm điều tra.

Năm 1993, Microsoft tung ra sản phẩm Windows NT, một hệ điều hành cho môi trường kinh doanh. Một năm sau đó, họ đạt được thoả thuận với bộ tư pháp trong việc thay đổi cách các hệ điều hành được đăng kí và bán cho các nhà sản xuất máy tính.

Năm 1995, Windows 95 đã được ra mắt với một giao diện hoàn toàn mới với nút và menu Start, cho người dùng truy nhập các chương trình đã cài đặt và nhiều chức năng khác của hệ điều hành. Hàng triệu bản copy của Windows 95 đã được bán hết chỉ trong bốn ngày đầu. Vào tháng 9, chính phủ Trung Quốc đã chọn Windows làm hệ điều hành được sử dụng ở đất nước này và thảo thuận với Microsoft chuẩn hoá phiên bản tiếng Trung của hệ điều hành này.

5. Những rắc rối luật pháp
Cuối năm 1997, bộ tư pháp buộc tội Microsoft vi phạm thoả thuận năm 1994 khi Microsoft buộc các nhà sản xuất máy tính phải kèm cả Internet Explorer (IE), một trình duyệt Internet của họ khi cài đặt Windows 95. Chính phủ buộc tội Microsoft đã lợi dụng một cách bất hợp pháp lợi thế đối với thị trường hệ điều hành máy tính để dành quyền kiểm soát thị trường trình duyệt Internet.

Microsoft phản bác lại rằng họ có quyền tăng cường các chức năng của Windows bằng cách kết hợp các tính năng cho Internet vào hệ điều hành. Tới cuối năm 1997, Sun Microsystem đâm đơn kiện Microsoft vi phạm hợp đồng sử dụng ngôn ngữ lập trình Java của Sun.

Tháng 11-1998, toà án liên bang cấp quận đã xử Microsoft vì tội chống lại lệnh của toà đưa ra trong vụ kiện của Sun một năm trước. Lệnh này buộc Microsoft phải sửa lại các phần mềm của họ để đáp ứng theo những tiêu chuẩn tương thích của Sun. Cả hai công ty đã giải quyết việc này vào năm 2001, với việc Microsoft đồng ý trả cho Sun 20 triệu USD cho việc giới hạn sử dung Java.

Microsoft cũng tạm thời giải quyết vụ chống độc quyền của Bộ tư pháp hồi đầu năm 1998 bằng cách đồng ý cho phép các công ty sản xuất máy tính sử dụng phiên bản Windows 95 không kèm theo trình duyệt Internet Explorer. Thế nhưng tới tháng 5-1998, Bộ tư pháp và 20 bang lại tiến hành khởi kiện Microsoft với tội danh cản trở cạnh tranh. Vụ kiện buộc Microsoft phải bán Windows không kèm theo IE mà thay vào đó là Navigator của Nescape Communication.

Tháng 11-1999, thẩm phán Thomas Penfield Jackson đã đưa ra những điều tra của ông về vụ này, trong đó ông tuyên bố rằng Microsoft đã có hành vi độc quyền trên thị trường hệ điều hành máy tính cá nhân. Năm 2000, thẩm phán Jackson buộc Microsoft phải tách làm hai công ty, một chuyên về hệ điều hành, còn một chuyên về các loại hình kinh doanh khác như là các phần mềm văn phòng. Microsoft làm đơn kháng án.

Tháng 6-2001, phiên toà kháng án được tổ chức. Phiên toà đã bác bỏ phán quyết trước cho rằng Microsoft đã gắn kèm bất hợp pháp IE vào Windows, trả vụ việc cho một toà án cấp thấp hơn xử lại theo một chuẩn pháp lý khác. . Toà kháng án cũng trả vụ Microsoft bị buộc tội vi phạm luật chống độc quyền cho toà án cấp thấp hơn xem xét.

Phán quyết cuối cùng là yêu cầu Microsoft phải tiết lộ những thông tin về hệ điều hành Windows cho các đối thủ cạnh tranh để các phần mềm của họ có thể tương thích với Windows, đồng thời cho phép các công ty sản xuất máy tính ẩn đi các biểu tượng kích hoạt các phần mềm ứng dụng của Windows. Nhờ đó một công ty sản xuất máy tính có thể sử dụng một trình duyêt khác thay cho IE.

Uỷ ban Châu Âu cũng tiến hành điều tra và ra phán quyết phạt Microsoft vì tội lạm dụng độc quyền và buộc Microsoft phải phát hành hai phiên bản Windows tại thị trường Châu Âu, trong đó một bản không kèm Windows Media Player. Toà cũng đòi Microsoft phải chia sẻ mã nguồn của Windows cho các đối thủ cạnh tranh.

6. Những phát triển gần đây Ngoai ngu - Tieng Anh - Tin hoc

Bất chấp những rắc rối trên pháp đình, Microsoft vẫn tiếp tục những bước đường kinh doanh thành công của mình. Tới giữa thập kỉ 90, Microsoft đã bắt đầu mở rộng sang các lĩnh vực giải trí, truyền hinh và truyền thông.. Năm 1995, Microsoft thành lập Microsoft Network chuyên cung cấp thông tin, tin tức, giải trí và thư điện tử cho người dùng máy tính cá nhân.

Năm 1996, Microsoft liên kết với hãng truyền thông NBC cho ra đời MSNBC. Cũng trong năm này, Microsoft giơí thiệu sản phẩm Windows CE dành cho PDA. Năm 1997, Microsoft trả 425 triệu đola để mua WebTV Networks, nhà cung cấp các thiết bị kết nối TV vơi Internet giá rẻ. Microsoft cũng đầu tư 1 tỉ USD vào Comcast Corporation, nhà điều hành truyền hình cáp ở Mỹ như một phần trong nỗ lực mở rộng khả năng kết nôi Internet tốc độ cao.

Tháng 6-1998, Microsoft tung ra phiên bản Windows 98 có kết hợp các tính năng hỗ trợ Internet.

Năm 1999, Microsoft trả 5 tỉ USD cho công ty truyền thông AT&T Corp để sử dụng hệ điều hành Windows CE cho các thiết bị cung cấp cho khách hàng với truyền hình cáp, điện thoại và các dịch vụ Internet tốc độ cao. Cũng năm 1999 công ty phát hành Windows 2000, phiên bản cuối cùng của Windows NT. Tháng một năm 2000, Bill Gates chuyển giao vai trò điều hành cho Steve Ballmer. Bản thân Bill Gates vẫn giữ ghế chủ tịch, đồng thời là kiến truc sư trưởng chuyên phát triển các sản phẩm và công nghệ mới.

Ngoai ngu - Tieng Anh - Tin hocNăm 2001 Microsoft phát hành Windows XP, hệ diều hành cho người tiêu dùng đầu tiên không dựa trên MS-DOS. Cũng trong năm này Microsoft giới thiệu Xbox, thiết bị Video game của công ty. Trong chiến lược công ty cũng có sự chuyển hướng khi tuyên bố một chiến lược mới mang tên .Net (Dot Net). Chiến lược này tìm kiếm khả năng cho phép các thiêt bị đa dạng như PC, PDA, điện thoại di động kết nối với nhau qua Internet, đồng thời tự động hoá các chức năng của máy tính.

Trong thế kỉ 21, Microsoft sẽ phát triển các chương trình kinh doanh bao gồm các phiên bản mới của Microsoft Network, kết nối không dây cho Internet. Năm 2003, công ty bắt đầu chú trọng vào "máy tính đáng tin cậy" đòi hỏi các lập trìh viên phải cải thiện khả nămg bảo vệ của phần mềm trước sự tấn công của virus và các phần mềm gián điệp.

Tóm lại, trong thế kỉ 21, với đà phát triển hiện nay, Microssoft sẽ vẫn tiếp tục giữ vững vị thế của một đế chế hùng mạnh nhất, vừa tạo động lực cho sự phát triển của ngành công nghiệp phần mềm và Internet thế giới, vừa tiếp tục là tâm điểm cho những cuộc tranh cãi về độc quyền hay cạnh tranh lành mạnh. Một chu kì mới lại đang băt đầu.

 
(♥ Góc Thơ ♥)

Tik Tik Tak

Truyện cười

Lượt xem thứ:





Mạng xã hội của người Việt Nam.
VnVista I-Shine © 2005 - 2025   VnVista.com