Vào
thế kỷ thứ bốn tại một thành phố thuộc miền tiểu á, nằm dọc theo duyên
hải Thổ Nhĩ Kỳ. Trên một ngọn đồi thơ mộng thuộc thành Patara. Một
thanh niên ngồi trên tảng đá, chàng ngắm nhìn biển xanh những hàng cây
chen chúc như xếp hàng mọc trên sườn đồi, rồi quay lưng lại nhìn ngôi
nhà đồ sộ, xinh xắn của chàng. Nhiều lần chàng đã ngắm như vậy, nhưng
sao hôm nay chàng mới chú ý đến ngôi nhà của mình, ngôi nhà đẹp và sang
trọng nhất vùng.
Chàng trai trẻ này tên Nichola,
chàng đang hưởng một gia tài kếch xù chàng nhớ những chiếc rương nặng
đầy vàng bạc, châu báu được khóa kỹ tại kho nhà chàng. Gia tài kếch xù
này là của hương hỏa cha mẹ chàng để lại, song thân chàng mới vĩnh biệt
cuộc đời phù du để vào nước vĩnh cửu. Chàng liên tưởng tới người cha
bác ái, rộng lượng, người mẹ hiền đức và đạo hạnh. Nước mắt tự dâng
trào ra, chàng quỳ xuống cầu nguyện như khi song thân chàng còn sống đã
dạy bảo. Hướng mắt lên bầu trời hoàng hôn, chàng thầm thì cầu nguyện "Lạy
chúa, ngài biết con không cần đến của cải mà hiện con đang có, con chỉ
ước ao phụng sự ngài. Xin ngài dạy cho con phải làm gì?" Cầu nguyện xong Nichola liền rảo bước xuống đồi.
Với lòng tin mãnh liệt vào thiên chúa, chàng tin
tưởng rằng Chúa sẽ đáp lại lời chàng, cưỡi ngựa về nhà, chàng phải qua
nhiều xóm nhỏ nghèo nàn dưới chân đồi và các xóm nghèo ở ngoại ô thành
phố. Khi ngựa chàng đi qua một con xóm nghèo, bọn trẻ trong xóm quần áo
dơ bẩn, xác xơ đồng loạt ngừng chơi nhìn chằm chặp vào chàng. Chàng
nhìn chúng và nhận ra ngay là chúng ước ao được giàu có như chàng.
Về tới nhà, nhìn lên ảnh song thân chàng đột nhiên nhớ tới lời của mẹ chàng dạy "Nếu con làm một việc gì cho những kẻ bé mọn nhất trong bất cứ ai, chính là con đã làm cho ta".
Đây là những lời của Chúa mà chàng hằng ghi tâm. Chàng nghĩ, ồ phải
rồi, con cảm tạ Chúa, Chúa đã trả lời cho con rồi chính những người
nghèo đói, những trẻ em xác xơ mà con đã gặp. Lạy chúa, con đã hiểu,
Chúa muốn con giúp họ. Chàng liền ra phố chợ, vào các hàng bách hóa mua
những quần áo sặc sỡ, mền gối, giày dép những thức ăn, bánh kẹo, thịt
cá, trái cây và những đồ chơi đủ loại rồi chàng nhờ những người bán
hàng gói từng gói để vào đầy những thùng, rổ chàng trả tiền và dặn họ
giữ lại khi chàng cần sẽ đến nhận.
Đêm hôm ấy và những đêm kế tiếp, chàng đợi cho dân
chúng đã tắt đèn đi ngủ, và chàng chắc các em đã ngủ say. Nichola đã
dòm dẵm trong bóng đêm, đem những thùng quà tới từng nhà, chàng đặt
trên những cửa sổ hoặc trên nhũng sàn nhà cùng với những nắm hạt dẻ,
bánh kẹo để trong những đôi giày mới để khi các em mở ra sẽ ngạc nhiên
và thích thú. Trong một thời gian dài, ngày ngày Nichola dò la các xóm
nghèo và tối đến lại bí mật đem quà đến cho họ. Ít lâu sau, dân trong
thành và các xóm nghèo các vùng ngoại ô đâu đâu cũng bàn tán về những
món quà mà đêm đêm họ nhận được. Họ muốn biết ai là người hảo tâm giúp
đỡ họ, họ bàn nhau cố tìm ra tung tích người hảo tâm này. Nichola nghe
được những lời bàn tán như vậy chàng tự nghĩ, nếu chàng còn tiếp tục bí
mật đem quà đến cho họ thì thế nào cũng bị bại lộ. Bên tai chàng văng
vẳng có tiếng nói: "Nếu con làm ơn cho ai mà con lại nhận lời cảm ơn của họ, như vậy con đã nhận công thưởng ở đời này rồi".
Sau nhiều ngày dân chúng không còn nhận được quà tặng hàng đêm, họ đã
gần như quên và không còn bàn tán gì về người hảo tâm nữa.
Một hôm, Nichola ăn mặc như một người dân thường,
vào một tửu quán nơi cô gái nghèo bị dụ vào đường xấu xa. Từ một bàn
trong góc phòng, chàng thấy các cô gái bán trong quán đều bị chủ ép
buộc làm những chuyện không tốt. Đang mãi quan sát chàng chợt thấy một
người đàn ông gầy gò, tiều tụy bước vào quán đến gặp chủ quán trò
chuyện hồi lâu rồi vội vàng bước ra. Khi trả tiền, chàng được chủ quán
cho biết ông đó đến xin việc làm cho ba cô gái, con ông, làm việc tại
quán này. Chàng ra cửa và thấy nhiều người đang chỉ chỏ ông lão, bàn
tán. Chàng tiến gần lại để nghe xem họ bàn tán gì về ông lão. Chàng
được biết trước đây ông lão là người khá giả, đàng hoàng nhưng không
may mắn gặp phải hoạn nạn, bây giờ rất là nghèo đói. Động lòng từ tâm,
chàng quyết định đêm hôm đó sẽ đến tìm cách giúp đỡ.
Trong đêm tối chàng lần mò tới nhà ông lão, thấy cửa
sổ của cô con gái lớn vẫn còn mở, chàng lẹ làng quăng một túi nhỏ đựng
những đồng tiền vàng vào trong phòng và rảo bước chạy khỏi ngôi nhà.
Nhờ túi vàng đó, sau ít tháng cô gái lớn đã lập gia đình và rất hạnh
phúc, lại nghe hai cô em vẫn chưa có gia đình vì không có tiền. Một đêm
nọ chàng âm thầm, dò dẫm trong đêm khuya và tìm cách ném một túi đựng
những đồng tiền vàng vào phòng cô em bé và cũng chỉ ít tháng sau, cô em
bé cũng lập gia đình. Người ta bắt đầu bàn tán, họ nói giờ cô út chỉ
còn chờ người hảo tâm đến giúp là sẽ lấy chồng vì cô cũng đã đến tuổi
cập kê.
Từ khi người chị nhận được sự giúp đỡ của người bí
mật, tối nào nàng cũng thấy cha cô ra đứng núp ở góc tường gần cửa sổ
phòng nàng. Cô út thắc mắc thì được người cha trả lời. Ba muốn biết
người ân nhân đã giúp gia đình mình, ba muốn cảm ơn. Một đêm trời mưa
bão sấm chớp ầm ầm. Nichola lại đem một túi nhỏ đựng những đồng tiền
vàng quăng vào cửa sổ của cô gái út. Vừa quay đi chàng bị một bàn tay
nắm lại, chàng bị bắt quả tang, ngay lúc đó một làn chớp lóe lên người
cha đã nhận ra chàng. Ông ta la lớn "Nichola thì ra anh"
cùng lúc này, Nichola cũng nhận ra ông lão gầy gò là bạn của bố mình.
Ông định kéo chàng vào nhà để tỏ lòng tri ân, nhưng Nichola đã giằng
tay ông ra, chàng ôn tồn xin ông hứa không tiết lộ cho bất cứ ai biết
việc chàng đã làm. Sau đó chàng từ giã ông và rảo bước khuất dần trong
đêm tối.
Vì ước nguyện của song thân cũng như của chính chàng
lớn lên. Nichola đã dâng hiến tất cả của cải để giúp đỡ cho cả vùng.
Chàng dâng mình vào nhà Chúa, qua những năm tu luyện chàng đã được lãnh
chức linh mục. Với lòng nhân ái bao là. Ngài, đối với những người nghèo
khó, chỉ một thời gian ngắn sau đó. Ngài lại được chọn làm giám mục
Myrya thuộc Lycia miền Đông Nam Tiểu Á. Người ta kể rằng, tại biển
Aegean một đêm bão tố khủng khiếp, có một con tàu gần như đắm chìm,
không còn hy vọng gì. Đức giám mục Nichola nghe biết, liền quỳ xuống
ngữa mặt lên trời và cầu nguyện. Chúa đã nhận lời và con tàu đã thoát
hiểm. Do câu chuyện này các thủy thủ thường cầu nguyện trước những cuộc
hải hành xin Thánh Nichola cầm lái tàu của chúng con.
Sau đó nước Nga đã nhận ngài làm quan thày, các nước
tỏ lòng tôn kính ngàu bằng những tục lệ đặc biệt như Hòa Lan, Thụy sĩ,
Đức, Pháp tôn kính ngài đặc biệt cách riêng, sau khi ngài mất.
Chẳng bao lâu ngài được tôn vinh lên bực hiển thánh.
Vào thế kỷ thứ 6, tại Constantinople, những thánh đường nguy nga, đồ sộ
được xây dựng lên để kính thánh Nichola, cũng vào thế kỷ thứ 9, tại
Đông Nam Á các thánh đường cũng được xây cất để kính nhớ Ngài. Thế kỷ
thứ 11 các Thánh đường cũng được xây cất kính thánh Nichola tại Âu Châu.
Năm 1087 khi quân Thổ Nhĩ Kỳ tấn công thành Myra,
một lái buôn người Ý đã âm thầm đem thánh cốt người về Bari-Apulia nước
Ý. Giáo dân ở đây đã hãnh diện có hài cốt của ngài, người ta đôi khi
gọi ngài là Thánh Nichola Bari. Trong giáo hội công giáo có rất nhiều
vị Thánh được tôn thờ, muốn phân biệt và biết vị nào là Thánh Nichola
ta thấy thánh đội mũ giám mục hay hào quang sáng chói tay phải đang ban
phép lành, tay trái cầm gậy giám mục hoặc ba quả bóng nhỏ. Được biết
ngày 6 tháng 12 là ngày lễ kính thánh Nichola, đêm vọng lễ các trẻ em
thuộc nhiều quốc gia đặt những đôi vớ lớn hoặc những đôi giày ở ngoài
cửa sổ để cho Thánh Nichola bỏ đồ chơi, kẹo bánh vào đó. Dịp này, cha
mẹ các em thường nhắc các em phải ngoan ngoãn và chịu khó học hành,
vâng lời người trên thì sẽ nhận được nhiều quà hay kẹo bánh. Các em
cũng nhân dịp ngày lễ tỏ ra ngoan ngoãn, biết vâng lời chịu khó học để
hy vọng thánh Nichola sẽ cho nhiều quà.
Tục lệ này đã được người Hòa Lan du nhập vào đất Mỹ.
Thánh Nichola hay Sone Klass hay ông già Noel, hay Santa Claus được
nhiều người trong mọi quốc gia biết đến. Hiện nay họ không còn treo vớ
giày ra ngoài cửa sổ nhưng đã treo vỏ đỏ có viền trắng gần lò sưởi
trong đêm vọng giáng sinh tức ngày 24 tháng 12 để hy vọng nhận được quà
và kẹo bánh.