Ông Cai Móm lại ngừng lần thứ ba, lấy cốc rượu uống một hơi rồi kéo một mồi thuốc Lào. Lệ Thi nóng ruột muốn nghe, giục ông cai kể tiếp, nhưng ông vẫn điềm tĩnh thong thả uống rượu hút thuốc khề khà, làm cho vợ tôi càng thúc giục hơn nữa. Thi muốn nghe, mà hễ nghe đến chỗ nào rùng rợn, thì lại bám riết lấy tôi, thu hình cuốn vó lại, trông buồn cười lắm. Phải thế chăng mình?
Một hồi lâu ông Cai đủ nghiện, mới oang oang nói tiếp:
Bấy giờ Oanh Cơ gục mặt vào vai tráng sĩ. Tráng sĩ muốn cho nàng đỡ sợ, phải tìm kế nói chuyện để bắt nàng phải chú ý vào một sự khác, ngõ hầu quên nỗi đau xót và quên cảnh vật ghê sợ của rừng khuya. Câu chuyện tráng sĩ nói, sau này lại chính mồm Oanh Cơ kể lại cho cậu ruột tôi nghe, vì thế nên tôi biết rõ. Tráng sĩ sợ nàng cứ nghĩ ngợi mãi về cái chết thê thảm của anh chị nàng, và cứ bồn chồn lo ngại luôn luôn, thì không khéo chết ngất đi lần nữa, chàng phải nói luôn mồm cho nàng thấy bao giờ cũng có người ngồi bên cạnh và che chở cho mình. Tráng sĩ bảo Oanh Cơ:
- Cô đừng nên sợ hãi kinh ngạc, cô ạ! Có tôi ở đây, không khi nào tôi để thú dữ ma thiêng phạm đến cô được. Tôi có khi nằm trên chòi này hàng nửa tháng, đêm đêm trơ trọi một mình, tôi chả e ngại gì hết. Gặp ác điểu, mãnh thú thì tôi bắn, tôi đánh, tôi cầm mã tấu hoặc đoản côn thử chơi với chúng nó vài keo, đi cho chúng nó xem vài đường võ, bao giờ chúng cũng thua chạy, hoặc bỏ xác lại cho tôi khiêng về. Chúng nó có làm gì được tôi? To lớn, khỏe mạnh và nhanh nhẹn như con hổ, tôi chỉ coi như loài thú dữ mà thôi.
Cái đáng sợ nhất, ấy là ma rừng. Giống ấy thiêng lắm, và lợi hại lắm. Nhưng tôi có làm gì phạm chúng đâu, mà chúng nỡ xử tệ với tôi? Chả qua chúng chỉ muốn đùa giỡn quấy quả tôi cho vui, chớ chưa làm tôi ốm đau và chịu thiệt bao giờ. Hay là chúng có ý nể tôi thì chả rõ. Một vài lần đầu tiên, có vài con đầu đàn, chúa tể ở vùng này, hiện lên dọa nạt tôi. Tôi đang nằm trên sàn thì nó làm sàn quay tít như chong chóng, định thần ngồi một lúc thì lại không thấy gì. Có khi nó ném tôi đến bịch một cái xuống tận gốc cây, tôi nhìn lại thì thấy vẫn còn ở trên sàn. Lại có lần vừa buổi chiều, mới trèo lên cây đã thấy ngay lủng lẳng treo trên cành chỗ thì một cánh tay, chỗ thì một cái chân, chỗ khác thì cái đầu lâu máu ở cổ chảy xuống ròng ròng, chỗ khác thì cái thây người. Một chốc, tất cả mấy thứ ấy bay vùng lên sàn, liền nhau lại thành một người đen thui thủi, đầu tóc dựng ngược, mắt mở to, há mồm cười nhe răng trắng nhơn nhởn. Tôi cứ ngồi yên nhìn con ma ấy không nói; nó thè lưỡi đỏ như lửa dí tận sát mặt tôi, khí lạnh của nó thâu vào khắp người tôi, tôi rợn lắm, song vẫn cố trấn tĩnh. Nó dọa chán thì biến mất.
Lần khác nó hiện lên đến sáu bảy con, lớn có, bé có, trẻ có, già có, đứa nào cũng quần áo rách rưới hoặc trần truồng như nhộng, trông người gầy gò đen thủi, xấu xí lắm. Chúng đi lơ lửng như không bước, là là trên mặt cỏ, lại chỗ tôi đứng dưới gốc cây, dang tay bao vành lấy tôi rồi nhảy múa làm tôi hoa cả mắt. Tôi bị chúng trêu nhiều lần lắm, lần này thì tôi chấp tay vào trước ngực, nhắm mắt niệm Quan Thế Âm, rồi đọc câu thần chú trừ tà: “Tả Tanh Long, hữu Bạch Hổ, tiền Chu Tước, hậu Huyền Vũ”. Mở mắt ra, chúng đều biến mất cả. Tôi lên được trên sàng, ngồi khấn rằng:
- Tôi tên là Lê Trọng Việt, là một kẻ đi săn các ác điểu, mãnh thú, không xâm phạm gì đến vong hồn các anh em cả. Anh em nếu có linh thiêng, xin phù hộ cho tôi, săn được nhiều, tôi sẽ chia cho một phần và xin cúng tế anh em tử tế, mỗi khi tôi tới đây. Từ trước tới nay, anh em trêu ghẹo tôi, tôi đã chịu nhẫn nại, không làm gì cả. Tôi không dám chửi rủa các vong hồn, cũng không dám láo xược với các vong hồn, xin các người từ đây đừng dọa nạt đừa giỡn tôi nữa! Nếu tôi khấn khứa tử tế thế này mà không tha, thì sau này sẽ có cách tôi đối phó lại, bấy giờ đừng trách móc tôi đó! Ðây, gọi là thành tâm lễ bạc, tôi có chút quà này xin biếu anh em!
Khấn xong, tôi giở tay nải đem ra bày ở sàn một ít bánh đúc để trên vài tàu lá, và một ít hoa quả tôi đã cố tình mang đi từ chiều. Rồi tôi đốt hương đốt nến, vái bốn vái. Xong lại đem đống mấy chục lá vàng hồ. Công việc thấy ổ thỏa, tôi nằm chèo queo đánh một giấc đã đời, chờ đến canh hai thì dậy. Ðêm hôm đó, quả nhiên tôi săn được nhiều lắm, song toàn là các thú nhỏ. Và tôi cũng không bị trọc ghẹo nữa. Bắn được cáo, được cầy, tôi đợi rạng ngày là thui ngay vài con dưới gốc cây, cúng tế xong rồi mới về. Những đêm sau đều săn được kha khá. Tôi vẫn giữ lời hứa chia phần cho ma, nhưng ăn quen rồi thì lại rửng mỡ, đến đêm lại tìm cách làm cho trong nhà sàn của tôi các đồ đạc lung tung lên cả. Có một lũ chuột, mỗi con bằng con mèo to đến hì hục tìm mồi, ăn bánh đúc cơm nắm của tôi, gậm nát cả chuối tôi trữ sẵn để tráng miệng, cắn rách áo tôi và nhá chân tôi đau lắm. Chúng nó tha nỏ của tôi quăng xuống đất và tha mã tấu của tôi cấm vào một cành cây, vác tay nải của tôi treo lủng lẳng ở mái sàn. Lũ ranh ấy lục lọi đủ thứ chọc tức tôi đến cực điểm. Ðêm tôi ngủ dậy, sờ nải chẳng thấy đâu, biết là có chuyện. Tôi bèn ngồi một lúc định thần cho mắt sáng ra, có thể trông rõ trong đêm tối được; tôi nhờ ánh mờ mờ của các ngôi sao le lói nên tìm được đẫy nải và mã tấu vì lưỡi dao lấp lánh dễ thấy lắm.
Tôi mở nải lấy sẵn bùi nhùi, đá lửa, và hai ống địa lôi to. Rồi tôi ngồi đợi xem cái giống quái kia có đến quấy nhiễu tôi nữa chăng. Quả nhiên, chúng trở lại để xem tôi tức giận đến thế nào. Lần này chúng biến ra một lũ cú mèo và mèo rừng đến vỗ cánh ầm ầm và kêu reo réo ầm ĩ cả chung quanh mình tôi, bâu lấy tôi đen nghịt. Tôi đã biết nên thủ sẵn một sợi dây ngũ sắc dài, một bông phẩm đỏ ướt; tôi cứ ngồi điềm nhiên niệm Phật và đọc thần chú. Chúng quây quần lấy người tôi song không phạm đến tôi được. Tôi đánh đá tóe lửa, đốt bùi nhùi; bùi nhùi cháy, tôi dí ngay vào ngòi hai cái pháo khổng lồ treo ở mé sàn; xong tôi vội vàng đứng dậy, quơ tay túm được một anh mèo, rồi nhảy vọt ra ngoài, chuyền cành nọ sang cành kia, ra ngoài một chẽ cây gần gốc. Tôi vừa leo vừa kéo dây ngũ sắc ở cổ buộc vào mình con mèo, nó cắn tôi, cào tôi, giẫy giụa và đập đuôi chan chát, tôi cũng mặc kệ. Buộc dây xong, tôi lại sờ vào áo túi lấy bông phẩm đỏ, bôi nhoe nhoét vào mặt nó, xong đâu đấy tôi thả nó rơi đến bịch xuống đất.
Tôi làm những việc trên đây nhanh như chớp, bởi đã định trước cả rồi; chỉ thoáng một tí là đốt xong ngòi pháo, bắt một con mèo và nhảy chuyền xuống gốc cây ngồi ở một chỗ, tươm tất lắm.
Tôi vừa an vị, hai tiếng nổ kinh thiêng động địa nối tiếp nhau xé tan vừng lặng lẽ của rừng khuya; bốn bên toàn là sườn núi cả nên tiếng pháo địa lôi càng dữ dội. Ðàn mèo tranh nhau mà chạy, đàn cú tranh nhau mà bay, chúng chen nhau, húc nhau ùa cả ra khỏi sàn. Phần nhiều đều rơi xuống đất huỳnh huỵch, có con chạy không kịp, phải biến ra khói, tan đi. Pháo vừa nổ, định thần mà nhìn, chả thấy một con nào nữa cả, thì ra chúng nó vừa rơi đến đất hay chưa đến mặt cỏ là chúng đã biến cả rồi! Vô phúc có một anh cú bay tạt qua mặt tôi, tôi túm ngay lấy, luồn ngay dây ngũ sắc buộc lấy hai cánh, rồi cũng đem phẩm bôi vào mặt. Tôi lại vứt con quái vật ấy xuống đất theo với con mèo; hai con đó giãy giụa, vật mình đùng đùng vào gốc cây nghe rõ mồn một. Ý chừng chúng nó muốn tháo dây thì phải, nhưng tôi buộc theo phép phù thủy, có mà tháo đường trời!
Tôi lên ngồi chễm chệ trên sàn nứa. Lúc này tôi đốt bùi nhùi, thắp một ngọn bạch lạp, đi tìm các thứ binh khí, thu thập xem có thiếu gì không. Xét ra chỉ mất cái “nỏ thần” của tôi mà chúng đã ném xuống gốc cây cổ thụ, còn đồ đạc thì đủ cả. Tôi ngồi yên xem động tĩnh thế nào. Lúc đó rõ ràng tôi tỉnh táo, bao nhiêu tinh thần tâm trí đều sáng suốt cũng như ngọn bạch lạp rạng to thế mà không hiểu vì đâu tôi như mơ màng, tai nghe văng vẳng có tiếng nói rất khẽ mà rất rõ, một thứ tiếng không phải là tiếng, chỉ như một dư âm xa lơ xa lắc, một tiếng gọi bị đập vào đá rồi oang oang đưa lại từ chỗ nào... như một cái “bóng của lời nói” thì đúng hơn. Cái tiếng gọi đó gần sát tai tôi, nhưng quái, cũng như ở một nơi xa lắm, chỉ nhận biết nó rành rọt, nghe tường tận vô cùng. Nó như thế này:
- Ông Trọng Việt ơi! Ông ác làm chi, ông tắt đèn đi! Chúng tôi biết lỗi rồi, chịu phục ông rồi. Ông cứu cho lần này, lần sau không bao giờ dám phá ông nữa. Riêng hai đứa tôi, chúng tôi sẽ đội ơn ông và phù hộ cho ông. Ông hãy tắt đèn đi...
Tôi đoán ngay là lời kêu van con ma bị bùa ngũ sắc buộc, không biến được. Chúng nó đã hối quá, tôi cũng chả nên táng tận lương tâm. Chả qua chúng xử tệ với tôi hết sức, nên tôi mới phải báo thù, nếu không tôi cũng chẳng hơi đâu nghịch ngợm với chúng nó để mất một đêm săn bắn. Cái đêm ấy, thế là vô ích. Tôi bị mất nỏ, lại mất thì giờ, lại đốt địa lôi và châm đèn thì còn con thú nào dám đến gần cho mà bắn nữa, mà dù có đến thì biết tìm nỏ ở đâu? Xuống gốc cây ư? Chả dại. Nhỡ có làm sao trong đêm tối, giữa rừng vắng, thì hết kế thoát thân. Thôi, chúng nó xin tắt đèn, thì tôi tắt để xem chúng giở trò trống gì nào! Tôi dụi cây nến, ngồi đợi. Trời vừa tối bỗng nghe bịch bịch hai tiếng, sờ thì ra có con mèo và con cú ở ngay cạnh thân. Văng vẳng bên tai lại có tiếng:
- Ông làm phúc tháo dây cho chúng tôi, và dội vết phẩm cho chúng tôi. Ông tha cho, sẽ xin đội ơn ông mãi.
Tôi nói:
- Lấy nước đâu mà dội? Tôi chả có gì đựng nước cả, chỉ có một cái vỏ dừa ở góc sàn, nhưng lại không có một giọt nước nào. Thì làm sao mà dội cho hai người được?
Tôi vừa dứt lời thì, quái lạ! Thấy ngay một vật ươn ướt đụng chân, sờ xem là một gáo nước đầy, cái gáo sứt không có cái cán của tôi! Tôi hơi ngạc nhiên một tí, song nghĩ ra ngay. Có gì lạ đâu! Một lũ ma nữa, vô hình, đương bao bọc lấy tôi để xin tôi gỡ cho hai đứa bạn của chúng và để xem tôi xử sự như thế nào. Tôi lên mặt đạo mạo, phán rằng:
- “Chỉ tại các ngươi chọc ta, chớ ta có làm hại các ngươi đâu. Ta cúng các ngươi, cho các ngươi nào thịt, nào bánh, nào hoa quả, nào vàng lá, thế mà các ngươi chả biết ơn phù hộ ta mà còn quấy quả ta, thì trời đất nào chứng cho các ngươi? Ta đây biết phù thủy, chỗ này, tôi nói khoác mà để dọa chúng mà thôi, chứ thật tình thì tôi chả có phép quái gì. Chúng bây làm gì nổi ta? Các ngươi nạt ta thế, chứ nạt nữa ta cũng chả sợ. Ta đã có cách đối phó lại, còn nhiều cách lắm, đây này, các ngươi hãy xem!”
Nói đến đó, tôi sờ tay nải (túi xách tay ngày xưa), lấy ra một củ tỏi, bóp nát và dí vào mũi con mèo và mũi con cú. Quả nhiên chúng nó giẫy lên đành đạch. Tai tôi lại nghe văng vẳng:
- Chúng con lạy ông! Chúng con biết tội rồi, ông xin tha cho chúng con! Ông vứt tỏi rửa tay đi, rửa tay đi.
Tôi quăn củ tỏi xuống đất, dội nước ở gáo rửa tay, tôi rửa hết cả một gáo nước, rồi lấy vạt áo lau tay. Vừa lau tôi vừa nói:
Ta còn nhiều thứ phép khác, lợi hại lắm. Hễ các ngươi xử ác với ta, ta sẽ xử càng tệ với các ngươi hơn cho bỏ ghét. Lần này là lần đầu, ta tha cho hai ngươi; phải biết ơn mà cố tu tỉnh lại, ta bắt được một lần nữa thì chớ trách ta đó! Nhưng mà gáo nước hết rồi, lấy gì gội rửa cho các ngươi đây?
Tôi nói vừa dứt lời, sờ xuống chân thì gáo nước khi nãy đã cạn bây giờ lại đầy. Tôi bèn móc trong đẫy ra một cái giẻ lau, thắm nước rồi lau mặt mũi cho con mèo và con cú. Chúng nó nằm im để tôi làm một cách ngoan ngoãn, chứ chúng nó không dám cựa quậy gì hết. Tôi lau một lúc lâu, áng chừng đã sạch lắm rồi, bấy giờ tôi mới tháo nút dây ngũ sắc ra. Vụt một cái, vừa cởi được dây, thì đã không thấy con mèo và con cú đâu nữa. Chỉ có phảng phất trước mặt tôi, lờ mờ như sương đọng lại, như khói tụ thành hình, hai cái bóng dịu dàng tráng toát, thự là “sương in mặt, tuyết pha thân”, hai thiếu nữ yểu điệu thanh tân, tuy trong bóng tối mà tôi cũng có thể đoán được là hai giai nhân tuyệt sắc. Cả hai tựa hồ mặc áo bằng mây trắng, mập mờ ẩn hiện, trông đẹp vô cùng. Một làn tóc đen cuồn cuộn xõa xuống ngang lưng, một thân hình tha thướt mềm mại, tứ chi nhỏ nhắn tròn trĩnh, đó là cốt cách của hai nàng. Trông cả đôi đều giống nhau, tựa như chị em sinh đôi, khó lòng phân biệt, nếu một nàng không có làn tóc dài chấm gót, khác với nàng kia, tóc chỉ để dài ngang lưng một chút thôi.
Tôi thấy hai bóng ma con gái ấy, trong lòng cũng hơi bồn chồn, cứ ngơ ngác ngắm nhìn họ. Cả hai nàng cùng quỳ xuống sàn nứa trước mặt tôi, trong khi tôi văng vẳng nghe một điệu đàn mê ly vô cùng:
Hai em cám ơn thầy đã tha cho. Ðội ơn thầy nhiều. Sau này xin giúp thầy...
Ðiệu đàn chỉ ngắn có thế. Ðiệu ấy tức là giọng của hai nàng tháng thót hòa lên. Tôi lấy làm lạ rằng sao cái giọng này nó êm ái du dương, nó thỏ thẻ, trong trẻo khác hẳn với tiếng nói phào phào lúc nãy.
Tôi nghĩ một lúc, mới hiểu rằng khi hai nàng này chưa biến được thì cũng chưa nói được, đó chỉ là các bạn bè thay lời hai nàng mà cầu khẩn đó thôi. Tôi bảo là hai nàng nói, nhưng thực ra không có thanh âm phát ra ngoài. Tôi chỉ thấy một hai thiếu nữ đó lắp bắp, rồi tự nhiên tôi hiểu, tựa hồ trong tai tôi có tiếng nói dội vào óc tôi...
Hai ả lạy tôi sì sà, sì sụp, đoạn đứng dậy bước ra. Tôi vừa ngước lên, chưa kịp trông theo, thì đã không còn thấy bóng dáng của hai nàng ấy nữa đâu... Từ đấy, tôi đỡ bị nạn yêu ma quấy nhiễu làm rối loạn đồ đạc và ngăn trở sự săn bắn của tôi. Nhưng tôi lại bị một cái nạn mới lạ lùng nguy hiểm hơn: là hai con ma thiếu nữ Mường nó hình như mê tôi, đêm nào cũng lên ngồi cạnh tôi nói chuyện tỉ tê, như quấn quít lấy tôi không dứt. Tôi nhắm mắt ngủ, thì thấy như mình dắt tay chúng đi chơi trong rừng, bừng mắt dậy, lại thấy hai bóng trắng ngồi cạnh bên mình, trong óc, trong tai lại có tiếng dội văng vẳng nói chuyện với mình thân thiết lắm. Tôi là con trai chưa vợ, thấy thế sợ lắm, chỉ ngại giống yêu tinh ấy nó thu mất nguyên dương thì sẽ chết mất. Tôi lo quá, bỏ rừng về nhà. Ðêm về nằm ngủ lại thấy chúng nó đến trách móc sao không đến Ðồng Giao, săn bắn như mọi ngày cho chúng nó được gặp gỡ trò chuyện. Sáng dậy, tôi đem sự đó thuật lại cho anh tôi nghe. Anh tôi là người giỏi võ hơn tôi mà lại can đảm lắm. Anh tôi quyết cùng tôi đi vào rừng với tôi một phen. Quả nhiên, anh tôi được thấy hai thiếu nữ Mường của tôi và làm quen với chúng. Một đứa bám riết lấy anh tôi, còn đứa kia thì vẫn cứ mê hoặc tôi tới cùng. Hai anh em hễ nằm trên sàn thiu thiu ngủ là tự khắc thấy mỗi đứa ôm ấp một con ma đi dạo quanh khắp đồng khắp nội, bắt ong, đuổi bướm, bứt quả hái hoa, tình tự vui vẻ lắm. Tỉnh dậy, vừa bừng mắt đã thấy có hai ả ngồi dưới chân, con tóc ngắn kề anh tôi, con tóc dài kề tôi.
Thực là nguy ngập quá! Tôi hối hận vô cùng, hối hận vì đã đưa anh tôi vào cõi chết. Một mình tôi có thác cũng không oán gì số phận, song làm cho anh tôi vì muốn cứu tôi mà cũng thác nốt thì thực tôi có lỗi vô ngần. Kiên cường như tôi, mà tôi phải ứa lệ khóc. Nhưng không dám khóc trước mặt lũ quái đó, tôi đợi rạng ngày, dắt anh tôi ra khỏi núi, đi về quán trọ lúc bấy giờ mới ôm lấy anh mà khóc và xin lỗi. Anh tôi mủi lòng cũng khóc và khuyên giải tôi:
- Em đừng ngại! Anh xem hai con yêu này nó không phải là đồ dâm tình, chả qua chỉ là oan hồn hai con bé chết lúc còn con gái, thiếu tình đó mà thôi. Từ lúc mình quen chúng nó, mới cùng nhau đi chơi đi bời trong ngàn trong nội, nào chúng đã dắt mình đến cuộc mây mưa dâu bộc gì đâu! Thế thì chưa lo. Ðể thong thả anh nghĩ một kế làm cho chúng phải bạt đi mới được.
Anh tôi nói vậy thì tôi biết vậy, chớ tôi vẫn khóc lóc như thường. May sao, vì sự khóc lóc thảm thiết đó, có một cụ già để ý đến tôi. Ông hỏi tôi, tôi nhất nhất kể sự tình cho ông rõ.
Ông già ngắm mặt mũi hai anh em tôi một lúc, rồi ông đòi xem bàn tay. Xem xong, ông đưa chúng tôi vào một căn phòng hẹp trong nhà trọ, ông đứng ngoài bắt bốn cái quyết, lầm rầm đọc chú hồi lâu mới bước vào. Ông không đắn đo gì cả nói ngay:
- “Tôi xem khí sắc hai thầy, chưa đến nỗi suy. Ám khí cũng chưa phạm được mấy, vì hai thầy có can đảm nhiều, hóa nên tôi mới cứu được. Giá phải người yếu linh hồn, ắt bị hại đã lâu rồi. Cái giống ma này khôn lắm, nó muốn báo thù thầy đấy, nhưng nó cứ làm dần dần, mỗi đêm đi sâu vào một chút thôi, độ nửa năm thì không chữa được nữa. Tôi cho hai thầy hai đạo bùa này, hai thầy phải giấu trong kỹ trong búi tóc, nó sẽ không biết; nếu để chỗ khác, nó trông thấy sẽ cướp mất. Ta lại tương kế tụ kế, nhân chúng nó đương rủ hai thầy đi vào đường tình ái, hai thầy sẽ làm như âu yếm nó lắm lắm, chớ đừng tỏ vẻ lãnh đạm như xưa. Làm ra như mình thấy chúng yêu mình một lòng chân thật nên cũng hồi tâm mà sủng ái chúng. Rồi một thầy sẽ, trong khi tự tình, hỏi nó xem mả hay nhà mồ của chúng nó ở đâu. Nói rằng khi nào anh thác đi, sẽ lại nằm chung với em. Khi nó chỉ mả rồi, thì thử ba lần xem có cùng đúng một chỗ không, mỗi lần nên nhận địa thế và đánh dấu kỹ càng. Lúc nào biết đó chính là mả chúng nó rồi thì các thầy nên làm thế này thế này...”, đến đây ông cụ nói rất khẽ “Chúng nó sẽ kiêng hai thầy không dám đến gần nữa. Hai thầy sẽ thoát nạn. Song cốt nhất hai thầy phải điềm đạm, cẩn thận, suy xét cho tỉ mỉ, chớ có mừng rỡ lộ ra nét mặt mà khó lòng giấu được chúng. Hai thầy nên nhớ kỹ. Thôi hai thầy đi đi, thế là xong rồi!”
Chúng tôi xin tạ ơn ông cụ, cụ nhất định từ chối. Túng thế, giữa lúc cụ vô tình, cả hai anh em tôi sụp xuống lạy cụ hai lạy, cụ phải buộc lòng nhận vậy, nhưng làm cách nào cụ cũng không nhận tiền.
Ðêm hôm ấy, hai anh em chúng tôi lại vào rừng và bắt đầu làm đúng theo chương trình ông cụ già đã chỉ bảo. Muốn cho cẩn thận anh em tôi hỏi dò mả của hai con ma đến năm sáu lần, rồi chúng tôi nhận kỹ địa thế và đánh dấu chỗ của chúng rất minh bạch, chí kỳ không lầm lẫn được nữa. Một hôm trời có nắng, chúng tôi đợi đến đúng ngọ, vác xẻng vác cuốc vào rừng, đến chỗ hai cái mả mà chúng tôi đã đánh dấu, khai quật quan tài lên. Mở nắp ra vứt lá bùa vào rất nhanh rồi đậy nắp lại, xong lật áo quan cho xuống hố lấp đất lên cẩn thận.
Tối hôm đó, quả nhiên không thấy hai cái bóng trắng ngồi dưới chân nữa. Nhưng hai anh em tôi, lúc chợp mắt ngủ thì cùng thấy hai giấc chiêm bao giống nhau. Trong mộng, cô ả nhân tình ma của đứa nào hiện lên bảo đứa ấy rằng:
- Thôi được! Anh đã đối đãi với tôi tệ bạc và tàn nhẫn với em, rồi anh sẽ biết em báo cừu như thế nào. Em truyền hồn cho anh. Em sẽ làm cho anh chết đầu lìa khỏi xác, giữa lúc còn niên thiếu như em. Sống, anh không muốn làm chồng em, chết, rồi anh sẽ làm chồng em, anh nghe chưa?
Chẳng qua đấy là lời hăm dọa vu vơ, chớ nó chết rồi, còn làm quái gì được ai? Sống chết đã có mệnh, dễ đâu con ma kia có thể sát hại được hai anh em tôi? Chỉ biết từ khi triệt được nó, tôi được bình an vô sự. Lũ ma hình như sợ tôi rồi, không con nào dám lại trêu tôi nữa. Ðêm đêm tôi được ngủ ngon lành hết sức, tôi ở nhà sàn này quá như ở nhà tôi, chả còn e ngại nỗi gì. Trước kia tôi săn bắn mãi không bao giờ được hổ, báo và hươu nai; nay tôi bắn được rất nhiều hươu săn được hàng mười mấy con, gạc chất đầy nhà, bán được nhiều tiền lắm. Tôi lại vớ được đủ thứ; ngày thì có sơn dương có cầy hương, có các thứ chim quý, đêm thì có hoẵng, nai, lợn, báo, và chồn. Có một lần tôi ném phi tiêu giết được một con hổ mẹ và hai hổ con, vừa đây tôi hụt một con beo xám to tiếc quá. Anh cả tôi, Mạnh Khôi, thì lại thích về mé Chợ Ghềnh, anh tôi săn ở phía đó không vào đây mấy.
- Nhưng kìa! Cô xem có phải sắp sáng rồi đó không? Chúng ta mãi miết nói chuyện mà ai ngờ sắp bạch nhật rồi.
Ðẹp Duyên Cầm Sắc
Hồi ấy, nghĩa là cách đây đúng 56 năm, mùa Xuân năm giáp Thân (1884) ngày 16 tháng 2, thành Bắc Ninh thất thủ, về tay Pháp. Hai đạo binh, dưới quyền chỉ huy của hai thiếu tướng de Négrier và Brière de L’Isle, một mặt qua sông Hồng Hà, theo dọc sông Ðuống một mặt ở Hải Dương, đi tàu tới Phả Lại rồi đổ bộ, cùng men bờ sông Nguyệt Cầu tiến đánh Bắc Ninh.
trận ấy, quân Pháp chỉ mất độ tám tên binh và độ vài chục khẩu súng. Quân Tàu Cờ Ðen, núng thế, rút cả về Yên Thế, còn trơ quân An Nam thế cô, phải cởi giáp lai hàng. Một vị quan binh đứng đầu cai quản đội binh ta hồi ấy trong thành Bắc Ninh là Lãnh binh Lê Vũ Khúc. Ông là dòng dõi cựu thần nhà Lê, tuy không phải tôn thất, song tổ tiên ông đã làm quan tới chức Công Khanh, ba bốn đời nối tiếp nhau trong hàng tứ trụ. Sau bốn năm thế hệ văn quan, trong họ bỗng đổi nghề nghiên bút sang nghề cung kiếm, tổ phụ Lê Lãnh Binh xuất chân cử võ, làm tới Ngũ Quân Ðô thống, thân sinh ông làm Sơn Nam Ðề Ðốc, đến đời ông khí nhuệ nhụt đi chút ít, ông chỉ làm tới Chánh Lãnh Binh thôi.
Khi thành Bắc Ninh có cuộc xung đột binh đao, Lê Công đứng trên mặt thành đốc thúc quân sĩ, hợp với quân Cờ Ðen khánh chiến cùng binh Pháp.
Phải một tốp lính phía dưới thành bắn lên, ông bị một phát trúng dưới xương vai, một phát trúng tay phải, rơi mất ba ngón tay. Biết mình khó lòng chống cự được nữa, Lê Công bèn nhảy vào trong thành, theo đường hầm chạy vào chiến trường, rồi lên ngựa phóng thẳng một mạch về chỗ đất phong ấp của ông, ở cách thành Bắc Ninh hơn một dặm. Gia đình ông ở cả trong ấp đó. Ông vừa phi ngựa tới cửa chưa kịp vào đến sân thì ngã gục xuống, lịm đi. Vực vào nhà ông cứ thế thiếp dần, máu chảy ra lênh láng, không trối trăng câu nào cả.
Lê phu nhân hồi đó mới non bốn mươi tuổi; bà sống với hai người con trai đã khôn lớn, một người mười bốn, một người mười hai. Cậu cả tên Lê Mạnh Khôi, cậu em là Lê Trọng Việt. Hai anh em được chứng kiến cái chết thảm thương của thân phụ lấy làm đau đớn lắm, tuy còn thơ ấu nhưng cũng đã cảm thấy sự tử biệt sinh ly là một nỗi thương tâm thống thiết nhất trên đời. Hai anh em giúp mẹ tắm rửa cho cha, khâm liệm tử tế và an táng cho người bị chết nạn chiến tranh vì tận tâm báo quốc.
Thành Bắc Ninh bị hạ rồi, khi loạn lạc đã yên, ba mẹ con thu thập đồ đạc, bỏ đất phong ấp ở Bắc Ninh rút về an cư lập nghiệp ở núi Gôi, là quê quán tổ tiên hai anh em Khôi và Việt.
Về đến tổ hương, mẹ dệt cửi vá may để nuôi cho hai con ăn học, theo các trẻ con trong làng. Sang đình thụ giáo của một ông đồ. Hai anh em họ Lê rất nhác, chẳng bao giờ thuộc bài vở sử kinh, chỉ toàn trốn thầy đi với lũ trẻ con du thủ du thực, tìm đến chân đồi chơi đánh trận giả và tập dượt quyền cước. Thầy đồ nhiều phen đánh đòn rất đau, mà hai anh em vần không chừa, cứ ham mê nghề võ hơn nghề văn. Bà từ mầu ngày ngày hết sức khuyên răn, Khôi và Việt thờ mẹ rất hiếu thảo nên lại quỳ xuống xin lỗi mẹ và hẹn sẽ ra công chăm chỉ học, nhưng đến hôm sau, vắng mặt mẫu thân thì chứng nào tật nấy như thường.
Dần dần, bà mẹ biết rằng máu truyền thống chảy trong huyết mạch hai đứa con mình còn sôi nổi hăng hái lắm, nên cũ chỉ bảo ban lấy lệ mà thôi, còn mặc hai anh em Khôi và Việt được tự do luyện tập gân cốt, không ngăn cản nữa. Thành thử đến sáu năm sau, cả hai cùng to lớn khỏe mạnh; rõ ràng một đôi lực sĩ hùng dũng, oai phong. Từ khi góa chồng, Lê mẫu làm lụng chăm chỉ, để dành để dụm, thu xếp tảo tần, khi bỏ ấp ở Bắc ra đi, cứ bao nhiêu của cải thu vén đem cả về Nam Ðịnh; nhờ thế cũng có ít nhiều ruộng nương phong phú, đủ túc dụng một đời. Hai anh em Khôi, Việt, kịp đến tuổi trưởng thành, bà chưa có thì giờ lo bề gia thất cho hai con thì tự nhiên lâm bệnh, rồi lúc khỏi, liệt mất cả hai chân, không làm ăn gì được nữa. Hai anh em phải ở nhà lo liệu công việc giúp đỡ mẹ già. Tuy nói là giúp đỡ, nhưng kỳ thực hai cậu ấm chả được việc gì có lợi, cả bà mẹ ngồi một chỗ mà vẫn phải để tâm coi sóc đến công chuyện hàng ngày. Ruộng nương thì bà ấy cho cấy rẽ, cứ đến vụ là có gia đinh đi thu thóc lúa về, hai cậu ấm chỉ phải trông lũ người nhà, đừng để chúng ăn bớt ăn xén, thế là đủ. Lúc bán lúa cho hàng sáo, thì cũng đã có các vú bõ đếm tiền đong thóc, chả bận gì đến cậu ấm cả và cậu ấm hai.
Những buổi tối không phải coi sóc người nhà, ngoài vụ mùa màng và vụ bán chác, hai anh em lại chia nhau, anh ở nhà với mẹ già ba tháng, em đi ngao du săn bắn nơi xa; rồi em lại trở về nhà ba tháng trong khi anh được tự do đi chơi đây đó. Cậu hai Việt hay vào mạn Ðồng Giao săn bắn, mồi khi cậu đi vắng thì cậu cả có thèm thuồng lắm cũng không dám rời mẹ đi chơi nốt, chỉ quanh quẩn vào chợ Ghềnh lùng hươu nai hay chồn cáo một hai ngày mà thôi. Nhưng hễ cậu hai quay gót trở về, lại tha hồ cho cậu ấm Khôi muốn vượt bể băng ngàn được tới đâu mặc sức.
Một buổi sớm, cậu Việt về nhà bỗng thấy vẻ vui mừng tươi tỉnh, song chỉ vung mừng tươi tỉnh được ít hôm đầu. Vui tươi xong, cậu bỗng đâm ra thẫn thờ, vớ vẩn, tựa hồ thần hồn thần trí bị một cái gì ám ảnh; có ngày cậu buồn thỉu buồn thiu chẳng nói một câu nào, bà mẹ có hỏi thì cậu gượng cười chốc lát, nhưng phút sau, lại trầm ngâm mơ tưởng nhớ nhung ai. Thấy anh cả đi vắng lâu, cậu lộ ra vẻ sốt ruột lắm, chỉ ngong ngóng ra đứng cửa chầu chực, đợi cậu Khôi về suốt mấy ngày.
Mong ròng rã ba tháng, cũng chả thấy, mãi gần sáu tháng mới gặp cậu ấm anh trở lại, tải về một xe gạc hươu nai và hai ba tấm da báo, một tấm da cọp và một bộ hổ cốt. Anh em chả kịp hàn huyên nữa; cậu hai thấy có anh về thì mừng quýnh vội vàng thu xếp hành lý ra đi ngay. Lần này cậu đi chơi có non nửa tháng đã về, đem theo một người con gái mặc tang phục, và một đứa trẻ độ 15 tuổi.
Từ trước tới nay, có nhiều nhà phú hộ và danh giá trong vùng Gôi, thấy hai anh em họ Lê con nhà võ tướng , và rất khôi ngô tuấn tú, có ý muốn gả con cho. Mối lái có đến nhà hai cậu ngỏ lời cho Lê mẫu biết, bà cụ hỏi ý kiến hai con, song cả hai cậu, chẳng cậu nào bằng lòng lập gia đình cả.
Lạy mẹ, anh em chúng con còn ít tuổi có đi đâu mà vội! Mẹ còn trường thọ nữa, vì lão niên đới tật là một số rất tốt. Nếu mẹ cho phép chúng con, thì chúng con sẽ tự chọn lấy người bạn trăm năm chăn gối, như thế sau này chúng con chẳng oán than nỗi gì. Duyên số là một sự tình cờ mà thành, chớ biết thế nào mà chọn lựa.
Lê Mẫu nghe hai con trình bày như vậy, cũng vui lòng chiều ý không có ép uổng nữa. Hai anh em vì trọng võ thuật, cũng chả nghĩ đến sự lấy vợ. Tới khi Việt thình lình đem một người con gái ở đâu về, cả nhà đều kinh ngạc hết sức. Cậu hai đem nàng ấy vào lạy mẹ và lạy anh, rồi đầu đuôi sự thể thế nào, thú thật cả một lượt cho mẹ và anh rõ. Lê mẫu mới hay thiếu nữ đó là nàng Oanh Cơ, quê ở Bàn Thạch tỉnh Thanh Hóa, mồ côi cha mẹ và hiện không còn ai thân thích họ hàng. Bà và cậu ấm cả thấy Oanh Cơ thùy mị dịu dàng lại thướt tha kiều diễm, nên rất vui lòng đẹp ý, nghỉ ngay đến sự cho phép nàng được cùng cậu hai Việt sánh đôi. Cậu hai cũng chỉ mong ước có thế thôi, lú nghe mẹ và anh nói trúng tâm can mình, cậu bất giác đỏ mặt tía tai, phần vì thẹn, phần vì mừng, phần vì thương anh thương mẹ đã nghĩ đến hạnh phúc trăm năm của mình, không hề cản trở ý định của mình một chút cỏn con nào cả.
Cậu Việt vội bẩm mẹ là nàng Oanh còn có anh chị nàng bị chết trong khi vào rừng gặp cọp, phải đợi nàng trừ phục đã mới sẽ bàn đến chuyện thành hôn. Từ đó, hai cô cháu Oanh Cơ ở hầu hạ Lê Mẫu như hầu hạ mẹ già, không có lòng muốn đi đâu nữa. Mà cậu ấm hai cũng nhường anh đi xa săn bắn; về phần cậu, cậu chỉ muốn ở nhà thần hôn định tỉnh bên gối huyên đường mà thôi.
Hơn một năm sau, nàng Oanh Cơ mặc áo quần hồng, quấn khăn vành dây, che quạt lượt đỏ, lạy Lê Mẫu hai lạy để trở nên mợ Hai Việt. Lứa uyên ương mới cả ngày chỉ quấn quít lấy nhau, yêu nhau cực điểm, khiến mẹ già trông thấy cũng vui lòng. Trong gia định họ Lê từ đó, càng ngày càng thêm vui, thêm thịnh; Oanh Cơ đã từ lâu, đem về cho Lê Mẫu sự an nhàn thư thái, đem về cho cậu hai sự hạnh phúc êm đềm. Từ ngày có nàng, Lê Mẫu không phải nai lưng cáng đáng công việc trong nhà nữa. Bao nhiêu việc tần tảo thu vén gặt lúa, bán thóc, một tay nàng coi sóc được hoàn hảo, vẹn toàn.
Nàng là người không những có thanh, có sắc, nàng còn khéo léo đủ đường, tề gia nội trợ đảm đang khôn xiết. Nhà họ Lê có nàng thì phòng ốc cửa ngõ ngăn nắp đâu vào đấy; thềm gạch, sân hầu bao giờ cũng sạch sẽ tươm tất; đồ đạc giường chiếu bao giờ cũng ngay ngắn chỉnh tề; cơm bao giờ cũng ngon, canh bao giờ cũng ngọt; trong gia đình bao giờ cũng êm thắm yên vui. Lê Mẫu, nhiều phen ngồi bên ngọn đèn dầu đọc sách xem con dâu dệt cửi, thỉnh thoảng gấp sách ngường đọc trông Oanh Cơ một cách yêu thương âu yếm, bảo nàng rằng:
- Này nhà hai! Mày về làm dâu mẹ, mẹ chả còn có điều gì trách móc được. Mẹ bình sinh không có con gái, nay được con mẹ quý mến biết bao. Nhất là tất cả mọi chuyện trong nhà, con một tay thu xếp gọn gàng yên ổn cả, khiến mẹ được ăn không dưỡng lão, thực mẹ không ân hận oán than gì nữa! Sau này nếu mẹ thác đi, buổi lâm chung anh con chưa có vợ, vợ chồng con chưa có con, nếu hai sự ấy nhất đán nhờ Trời Phật, đều được như lòng mẹ ước, thì mẹ dù nhắm mắt cũng sẽ mãn nguyện đủ trăm bề.
Bà cụ mong như vậy, ai ngờ ước mong của bà có linh hiệu làm sao. Chẳng bao lâu, nàng Oanh thụ thai, khiến bà thiếu chút nữa mừng quá mà chết. Mãn nguyện khai hoa, Oanh cho ra đời một đứa con gái nhỏ giống mẹ như tạc, lại được cái vẻ khảng khái lẫm liệt của cha. Trong gia đình, nhờ có đứa trẻ càng tăng thêm hạnh phúc êm vui; cậu Việt, từ buổi có con, chỉ quấn quít chung quanh mình vợ, hầu hạ con như một ông bõ trung thành tận tụy.
Riêng chỉ có Khôi thì vẫn không quên nghề nguy hiểm, ở nhà không săn bắn tập luyện là thấy bồn chồn khó chịu vô cùng. Chàng thường đi đây đó suốt năm, ở nhà nhiều nhất chỉ được độ vài ba tháng. Mỗi kỳ ở nhà, Khôi lại bắt Việt theo mình ra chân đồi múa võ, sợ em lâu ngày không rèn tập thì gân cốt yếu kém đi. Bởi thế, cứ độ nào có Khôi, thì Việt phải tạm xa vợ xa con một ngày hai buổi, cùng anh ra dượt võ ở ngoài đồng. Lâu dần thành một thói quen, hễ cứ anh đi vắng thì thôi, lúc nào anh có ở nhà, Việt lại cùng anh đối thủ. Hai anh em tựa hồ rất có tín ngưỡng trong nghề quyền cước; họ thi nhau trổ tài, không phải để cố ý đánh nhau, cũng không để khoe khoang tài nghệ mình trước mặt công chúng. Công chúng đây là vài ba người nhà quê hiền hậu, chất phác chả hiểu cung kiếm là gì. Lắm khi hai anh em họ Lê rượt nhau chạy bên mình họ, họ cũng thản nhiên điềm tĩnh cày bừa, không buồn để ý đến. Tuy họ không chú ý ngắm nhìn hai cậu ấm luyện võ, mà trong làng, từ trên chí dưới, chẳng ai là người không rõ hai anh em họ Lê là một đôi tráng sĩ hùng dũng, săn bắn rất giỏi, có sức địch nổi muôn người. Tiếng đó đồn đại rất xa, quanh một vùng từ Bình Lục cho đến chợ Ghềnh, Ðồng Giao, rất nhiều tay hào kiệt, rất nhiều đảng lục lâm, đều mộ tiếng cả hai chàng Khôi, Việt.
Hai chàng giỏi võ nghệ gần đến nơi tuyệt đích thế mà không bao giờ dùng sức mạnh của mình để làm một sự gì phạm pháp, hoặc mưu công danh tài lợi trong đời. Hai anh em chỉ an cư ở thôn quê, sinh hoạt bằng vài mươi mẫu ruộng và bằng nghề săn hươu, nai, beo, cọp; họ thờ mẹ chí hiếu, đối với anh em vợ con, thân bằng cố hữu, chí tình, tịnh không có một dục vọng cao kỳ nào cả.
Ai ngờ đâu xử thế đến như vậy mà cả hai đều không tránh khỏi dây oan nghiệt đến chằng vào cổ; một ngày kia, Khôi, Việt cùng bị tình nghi, phải bắt giải lên Tỉnh lỵ, rồi chẳng bao lâu, bị ghép vào tội án tử hình. Thực là vạ gió tai bay, chả ai hiểu vì đâu nên nỗi. Có kẻ hiếu sự len lỏi vào gia đình hai cậu ấm, bàn tán rằng chẳng qua chỉ vì Oanh Cơ mà cửa nhà phút chốc tan tành. Họ nói:
Phàm giả những đóa hồng nhan rực rỡ và hoàn hảo quá chỉ toàn là những binh khí giết người. Muội Hỉ làm chết vua Kiệt, Ðắc Kỷ làm chết vua Trụ, Tây Thi xui Phù Sai vong quốc diệt thân và Bao Tự khiến U Vương táng mệnh, còn Quí Phi thì làm Minh Hoàng sống cũng như chết, thực quả đàn bà đẹp là cái mầm tai họa cho đời! Ðến vương bá bị những của vưu vật đó còn thiệt thân mất nước nữa huống chi người thường tránh sao khỏi nạn tan cửa nát nhà!
Câu nói ấy, tuy quá độc địa, song cũng có một phần sự thực. Sắc đẹp nàng Oanh Cơ quả là một duyên cớ trọng yếu khiến chồng và anh chồng nàng bị cái nạn đoản đầu. Hai anh em họ Lê bình sinh hay đem nhau ra thí võ ở chân làng Gôi, đều bị đao phủ hành hình tại chỗ đó.
Oan hồn, sau khi lìa khỏi xác trong một trường hợp cực kỳ thảm thiết, vì uất ức nên không tài nào tiêu tán được, nhất là vì hai tráng sĩ, chết rồi, lại không được họ hàng cầu nguyện cho linh hồn nhanh chóng được siêu thoát. Hấp thụ mãi khí thiêng liêng của non sông cây cỏ, hai vong hồn đó lâu dần hóa ra một thứ ma có đủ tư cách hiện hình về được, hiện về chẳng để dọa nạt hay làm hại ai cả, nhưng chỉ để diễn lại một bài quyền xưa kia họ ngày ngày hằng tập luyện ngõ hầu ghi trong cái thế hệ mới mẻ này vết tích một nỗi thương tâm uất ức của thời dĩ vãng, một nỗi đau thương do “oan nghiệt” dệt thành...