Bé Nguyên dễ thương

CHBTNSB
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31

Tỷ giá

Thời tiết

 

     Đất nước ta, trải qua một ngàn năm bị Bắc thuộc, chịu ảnh hưởng khá nhiều từ văn chương Trung Hoa nhưng với tinh thần yêu nước, tự chủ ông cha ta đã đấu tranh để không bị đồng hoá thành người Hán. Kể từ khi Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên) viết tác phẩm đầu tiên bằng chữ Nôm, loại chữ này đã nhập tịch làng văn bên cạnh chữ Hán. Chữ Nôm đánh dấu một bước phát triển về ý thức tự chủ, bảo vệ bản sắc dân tộc của ông cha ta; tuy dựa trên căn bản là chữ Hán, nhưng lại phát âm theo tiếng Việt ; đó cũng là truyền thống của dân tộc ta: vay mượn từ văn hoá của người khác để làm phong phú thêm văn hoá của mình nhưng không đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Kể từ khi có chữ Nôm, các nhà nho bắt đầu sáng tác bằng chữ Nôm, chữ viết của người Việt Nam. Vì thế những tác phẩm này gần gũi với người Việt Nam, được truyền bá rộng rãi trong dân gian. Bản thân những tác phẩm này cũng vay mượn ít nhiều từ kho tàng thơ ca dân gian vô tận của người bình dân.

     Những tác phẩm chữ Nôm tiêu biểu như : Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Hoa Tiên Truyện, Gia Huấn Ca, Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm diễn ca, Nhị thập tứ hiếu, Phạm Tải Ngọc Hoa…

     Những tác gia này tuy có ảnh hưởng từ văn chương Tàu nhưng những tác phẩm của họ vẫn đi sâu vào lòng người đọc và được truyền tụng mãi mãi. Vì sao vậy?

     Ta thử xét xem “Truyện Kiều”-tác phẩm bất hủ của dân tộc Việt Nam và của cả thế giới, là niềm tự hào của người Việt Nam-bắt nguồn từ đâu? Từ “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác giả Trung Hoa! Ngay cả tên người, địa danh, thời đại đều là ở Trung Quốc; thế nhưng tác phẩm vẫn đọng lại mãi mãi trong lòng người đọc. Phạm Quỳnh đã tuyên bố : “Truyện Kiều còn là tiếng ta còn, tiếng ta còn là nước ta còn”. Bao học giả đã nghiên cứu Truyện Kiều và đều công nhận rằng Truyện Kiều được viết bởi một phong cách rất Việt Nam, những ngôn từ thơ ca phần lớn bắt nguồn từ ca dao tục ngữ Việt Nam, gần gũi với lời ăn tiếng nói của người Việt Nam.Ví dụ :

E thay những sự phi thường,

Dễ dò rốn bể, khôn lường đáy sông

(Truyện Kiều)

Dò sông dò biển dễ dò

Nào ai bẻ thước mà đo lòng người

(Ca dao)

Nàng rằng phận gái chữ tòng,

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi

(Truyện Kiều)

Đi đâu cho thiếp theo cùng

Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam

(Ca dao)

Tiên thề cùng một thảo chương,

Tóc tơ một món, dao vàng chia hai

(Truyện Kiều)

Đôi ta đã nặng lời thề,

Con dao lá trúc dựa kề tóc mai

(Ca dao)

Chuyện chi mà bắt em thề,

Cầm dao lá liễu dựa kề tóc mai

(Ca dao)

     Các thi gia khác như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Đình Chiểu, Lý Văn Phức…cũng đều đem những hương vị dân ca, ca dao của dân tộc vào tác phẩm của mình. Vì thế tác phẩm của họ sống mãi trong lòng nhân dân. “Chinh phụ ngâm diễn ca” tuy được Đoàn Thị Điểm dịch từ bản Hán văn của Đặng Trần Côn nhưng lời dịch uyển chuyển, vận dụng nhiều ca dao, tục ngữ khiến tác phẩm gần gũi hơn với tâm tình người Việt Nam. Ví dụ :

Của là muôn sự của chung,

Sinh không thác lại tay không có gì

(Gia Huấn Ca)

Ở đời muôn sự của chung,

Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi

(Ca dao)

Tình kia nào phụ chi duyên,

Gió dun mưa dủi cho nên nghĩa nào.

(Hoa Tiên truyện)

Tình kia có phụ chi duyên,

Bến sông có phụ chi thuyền mà lo.

(Ca dao, hát ví đò đưa)

     Các tác gia thường sử dụng thể song thất lục bát và lục bát khi sáng tác bằng chữ Nôm.

     Lục bát nghĩa đen là sáu tám. Phép đặt câu theo thể này cứ lần lượt một câu sáu chữ lại một câu tám chữ, muốn đặt dài bao nhiêu cũng được.

     Phép gieo vần thì cứ chữ cuối câu trên phải vần với chữ sáu câu dưới, bốn câu có ba vần thành ra một đoạn nhỏ.

     Am luật thì bắt đầu hai tiếng bằng, rồi lần lượt đến hai tiếng trắc, lại đến hai tiếng bằng….Trừ có chữ cuối câu tám đáng trắc lại đặt bằng để hiệp theo vần bằng. Còn chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm theo phép “nhất tam ngũ bất luận” không cần phải theo đúng luật. Chữ thứ sáu và thứ tám tuy đều là tiếng bằng, nhưng thanh phải khác nhau : nếu chữ sáu là đoản bình thanh (không đánh dấu) thì chữ tám phải là tràng bình thanh (đánh dấu huyền), hoặc trái lại thế. Ngoài ra, vần chân có thể thông vận (đọc trại đi) để gieo vần được với câu sáu. Ví dụ : “trường” thành “tràng”, “đường” thành “đàng”…

Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.

Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân….

(Truyện Kiều)

Tưởng bây giờ là bao giờ?

Song song đôi mặt, còn ngờ chiêm bao.

Bấy lâu mưa khoá gió rào,

Ngoài muôn nghìn dặm, biết bao nhiêu tình.

“Biết đâu hương lửa ba sinh,

“Còn trăng, còn gió,còn dành duyên ta…

(Hoa Tiên)

Nguyệt Nga dạ xót như bào,

Đêm chong đèn hạnh, dầu hao than dài.

Thất tình, trâm lược biếng cài,

Bên màn buông xoã tóc dài ngồi lo.

Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ,

Bởi ngươi Diên Thọ hoạ đồ cho nên.

Hạnh Nguyên xưa cũng hoà Phiên,

Bởi ngươi Lưu Kỷ cựu hiềm còn ghi….

(Lục Vân Tiên)

     Thể song thất lục bát (hay lục bát gián thất) là cách đặt câu cứ hai câu bảy chữ rồi đến một câu sáu và một câu tám, cứ thế mà đặt dài mãi ra.

     Cách gieo vần thì chữ cuối câu bảy trên vần với chữ năm câu bảy dưới, rồi chữ cuối câu bảy dưới gieo vần với chữ cuối câu sáu, chữ cuối câu sáu lại vần với chữ sáu câu tám(theo như thể lục bát).Bốn câu có bốn vần, thành một đoạn nhỏ. Đặt sang đoạn sau thì chữ cuối câu tám ở đoạn trên lại bắt vần với chữ năm câu bảy ở dưới.

     Am luật hai câu bảy thì phải làm sao cho chữ cuối câu bảy trên là tiếng trắc mà chữ cuối câu bảy dưới là tiếng bằng. Đại loại thường câu bảy trên hai tiếng 2,3 đặt trắc trắc, rồi đến hai tiếng bằng để hạ xuống vần trắc; đến câu bảy dưới hai tiếng 2,3 lại đặt bằng bằng, rồi đến hai tiếng trắc để hạ xuống vần bằng. Ví dụ :

Trải vách quế gió vàng hiu hắt

Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng

Oán chi nữa những khách tiêu phòng

Mà đem phận bạc nằm trong má đào

Duyên đã may cớ sao lại rủi,

Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang

Vì đâu nên nỗi dở dang.

Nghĩ mình mình lại thêm thương nỗi mình…..

(Cung oán ngâm khúc)

…Ngoài đầu cầu nước trong như lọc,

Đường bên cầu cỏ mọc còn non.

Đưa chàng lòng dằng dặc buồn,

Bộ khôn bằng ngựa, thuỷ khôn bằng thuyền.

Nước có chảy mà phiền chẳng tả,

Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây.

Nhủ rồi, nhủ lại cầm tay,

Bước đi một bước giây giây lại dừng…

(Chinh phụ ngâm)

     Ngoài những thể thơ vừa kể trên, các tác gia còn sáng tác theo lối hát nói (hát ả đào hay còn gọi là ca trù). Lối hát nói là lối vừa để hát lên vừa phải hoà với bài đàn và nhịp phách, nên làm một bài hát phải đặt câu gieo vần sao cho âm điệu hợp với cung đàn khổ phách.

     Đại để cách đặt câu hát từ bốn chữ đến bảy chữ, chín chữ là vừa, bài hát thì mười một câu là đủ. Song cũng có khi câu đặt dài hơn, khúc khuỷu nhiều đoạn, gọi là câu gối hạc, bài đặt dài hơn mười một câu gọi là dôi khổ. Các câu trên đều đi đôi cả, duy câu cuối buông lẻ xuống sáu chữ cho hợp với nhịp phách.

     Cách gieo vần thì có hai loại vần: cước vận là vần ở cuối câu  và yêu vận là vần lưng chừng câu. Lúc hạ vần thường đương vần bằng thay sang vần trắc, hoặc đương vần trắc thay sang vần bằng, sao cho âm điệu hợp với cung đàn khổ phách. Ví dụ:

Ông phỗng đá

Mưỡu

Người đâu? Tên họ là gì?

Khéo thay, chích chích chi chi nực cười!

Dang tay ngửa mặt lên trời,

Hay là nghĩ sự đời chi đây?

Nói

Trông phỗng đá lạ lùng muốn hỏi:

Cớ làm sao len lỏi đến chi đây?

Hay tưởng trông cây, cỏ, nước, non này?

Chí cũng sắp chen chân vào hội Lạc?

Thanh sơn tự tiếu đầu tương hạc,

Thương hải thuỳ tri ngã diệc âu?

Thôi cũng đừng chấp chuyện đâu đâu,

Túi vũ trụ mặc đàn em sau gánh vác.

Duyên kỳ ngộ là duyên tuổi tác : chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác,

Cuộc tỉnh say , say tỉnh cùng nhau

Nên chăng, đá cũng gật đầu!

Nguyễn Khuyến

     Các sáng tác chữ Nôm ra đời khoảng thế kỷ 17, phát triển rực rỡ ở thế kỷ 18, 19 đã thể hiện tính mạnh dạn thoát ly khỏi sự gò bó của thể thức Đường luật Trung Hoa, cố gắng khoác một áo Việt Nam vào các hình ảnh, ý tưởng mượn của Trung Hoa; cố gắng này nói lên khả năng của ngôn ngữ Việt, tinh thần yêu nước của tác gia. Hơn nữa, các tác phẩm cũng phản ánh được phần nào tình hình xã hội của mỗi thời đại của mỗi tác phẩm.         


 

> Trả lời nhanh
Nhập vào tên của bạn:
Nhập mã số xác nhận (bắt buộc):
» Hiển thị cửa sổ mặt cười       » Download bộ gõ tiếng Việt Unikey
 Bạn có muốn chuyển các ký hiệu như :) :( :D ...thành mặt cười trong bài viết này?
 Bạn có muốn chèn thêm chữ ký vào bài viết này ?
 


 
Thông tin cá nhân

Nguyenbaby
Họ tên: Lê Đức Hạnh Nguyên
Nghề nghiệp: Phiên dịch tiếng Nhật
Sinh nhật: : 2 Tháng 1 - 1984
Yahoo: 4  
Trạng thái: User is offline (Vắng mặt)
Thêm vào nhóm bạn bè
Gửi tin nhắn



Xem theo danh mục
Xem theo danh mục:
     


Tìm kiếm:
     

Bình luận mới
hottea20052001 trong Văn hóa người Khme vùng ĐBSCL
Guest_anhke8074_* trong Con tàu ma (kỳ 2)

(♥ Góc Thơ ♥)

Tik Tik Tak

Truyện cười

Music online

Lượt xem thứ:





Mạng xã hội của người Việt Nam.
VnVista I-Shine © 2005 - VnVista.com