Tik Tik Tak
..::Ngôn ngữ các loài hoa(tt)::..
Hoa cẩm chướng: Tình bạn. Hoa cúc trắng: Ngây thơ và duyên dáng. Hoa cúc tím (thạch thảo): Nỗi lưu luyến khi chia tay. Hoa cúc vàng: Lòng kính yêu quý mến, nỗi hân hoan. Hoa đinh tử - màu lửa: Càng ngày anh càng yêu em. Hoa đinh tử - đỏ sẫm: Lòng anh không bao giờ thay đổi. Hoa đồng thảo: Tính khiêm nhường. Hoa đồng tiền: Niềm tin của em đã đạt được. Hoa Forget Me Not: Xin đừng quên em. Hoa huệ: Sự trong sạch và thanh cao. Hoa hướng dương: Niềm tin và hy vọng. Hoa hải đường: Nên giữ tình bạn thân mật thì hơn. Hoa hồng: Thể hiện tình yêu bất diệt. Hoa hồng BB: Tình yêu ban đầu. Hoa hồng bạch: Em ngây thơ duyên dáng và dịu dàng. Hoa hồng nhung: Tình yêu say đắm và nồng nhiệt. Hoa hồng vàng: Một tình yêu kiêu sa và rực rỡ. Hoa hồng đỏ: Một tình yêu mãnh liệt đậm đà. Hoa hồng phấn: Sự trìu mến của em theo bước chân anh. Hoa hồng tỉ muội: Khi được tặng, nếu là bạn trai thì cần hiểu rằng: Bạn là một đứa em ngoan. Hoa inmortel: Nỗi đau khổ khó nguôi. Hoa kim ngân: Lòng trung thành. Hoa lan: Bao giờ em cũng thành thật với anh. Hoa lay ơn: Những cuộc họp vui vẻ và lời hẹn cho ngày mai. Hoa lưu ly: Anh muốn hoàn toàn là của em. Hoa lài: Tình bạn ngát hương. Hoa lý: Tình yêu thanh cao và trong sạch. Hoa mai, hoa đào: Một mùa xuân tràn trề ứơc mơ và hy vọng. Hoa mimosa: Tình yêu mới chớm nở. Hoa mào gà đỏ đậm: Không có điều gì làm anh chán cả. Hoa ngân hương vàng: Tôi đã có chồng hãy tha thứ. Hoa phù dung: Hồng nhan bạc phận. Hoa phù dung: Chóng phai, không bền. Hoa quỳnh: Sự thanh khiết. Hoa sen hồng: Hân hoan, tươi vui. Hoa sen trắng: Cung kính, tôn nghiêm. Hoa sen: Lòng độ lượng và từ bi bác ái. Hoa sơn trà: Anh nên dè dặt một chút. Hoa thuỷ tiên: Kiêu căng và ích kỷ. Hoa thuỷ tiên: Vương giả, thanh cao, kiêu hãnh. Hoa thược dược: Sự dịu dàng và nét thầm kín. Hoa trà mi: Kiêu hãnh, coi thường tình yêu. Hoa trà: Mong manh sương khói. Hoa tường vi hồng: Anh yêu em mãi mãi. Hoa tường vi vàng: Anh sung sướng được yêu em. Hoa tường vi: Anh đã bắt đầu yêu em. Hoa tử vi: Sự e ấp kín đáo. |
Jul 19 2006, 08:31 PM
Bởi: bethao_q7
Có bờ biển dài đến 3.000 km, động đất và sóng thần ở Việt Nam là yếu tố cần tính đến để tránh những thảm họa. Các nhà khoa học thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam đang thực hiện công trình nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm của động đất và sóng thần vùng bờ biển Việt Nam.
Theo Viện Vật lý - Địa cầu (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam), Việt Nam nằm ở rìa phía đông nam lục địa châu Á, trải dài trên 2.000 km, được coi là có tính địa chấn trung bình. Tuy vậy, miền Bắc Việt Nam cũng đã xảy ra hai trận động đất mạnh tới 6,7-6,8 độ Richter (vào năm 1935 và 1983) gây phá hủy trên một vùng rộng lớn tới 13.000 km2. Gần đây nhất, vào năm 2001, một trận động đất 5,3 độ Richter xảy ra tại phía tây thành phố Điện Biên đã gây hư hại hơn 2.000 nhà cửa. Năm 2005, chuỗi động đất 4,5 - 5,1 độ Richter xảy ra liên tiếp trong các tháng 8, 10 và 11 ở vùng biển Vũng Tàu - Phan Thiết đã làm rung chuyển trên diện rộng khu vực Nam Trung Bộ và Nam Bộ gây hoảng loạn không chỉ tại nơi gần tâm động đất là Vũng Tàu - Phan Thiết mà còn lan rộng đến TP Hồ Chí Minh. Kết quả quan sát và khảo sát thực tế về sóng thần vùng bờ biển Việt Nam tại 33 điểm từ Móng Cái đến Cà Mau cho thấy: toàn vùng bờ biển nước ta chịu tác động lớn của sóng bão. Độ cao của sóng bão có thể đạt tới 10m, nhưng phổ biến là 5-8m. Sóng bão lớn thường đánh vỡ đê biển, cuốn trôi nhà cửa vùng ven biển, làm chết nhiều người, gây ngập lụt. Tùy theo vùng địa hình, nước có thể tràn vào tới 1-3 km, độ sâu 4-5m. Ngoài hiện tượng sóng bão, thủy triều, nước dâng, năm 1978 sóng thần đã xuất hiện ở bờ biển Trà Cổ, Móng Cái, sóng cao 3-5m. Đây là sóng thần có nguồn gốc khí tượng. Tại bờ biển Diễn Châu, Nghệ An cũng từng ghi nhận hiện tượng sóng thần có nguồn gốc khí tượng. Ngoài ra, vào những năm 1923, 1960, 1963, 1991 hiện tượng sóng thần đã xảy ra ở một số vùng biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ của Việt Nam do ảnh hưởng của hoạt động núi lửa Hòn Tro (trong quần đảo Phú Quý), núi lửa Pinatubo (Philippines). Nguồn: Viện Vật lý - Địa cầu Bên cạnh các yếu tố tự nhiên, các nhà khoa học cũng cảnh báo về các yếu tố con người trong quá trình khai thác tài nguyên có tác động đến môi trường địa chất làm tăng các khả năng xuất hiện các động đất kích thích, ví dụ như: khai thác dầu khí. Một yếu tố quan trọng khác là, Việt Nam có dải bờ biển dài đến 3.000 km, nguy cơ sóng thần cũng cần được tính đến để tránh những thảm họa. Các nhà khoa học của Viện Vật lý - Địa cầu - những người thực hiện đề tài "Đánh giá độ nguy hiểm động đất và sóng thần ở vùng bờ biển Việt Nam", cho biết: với bờ biển Việt Nam, nguy cơ sóng thần xuất phát từ một số vùng nguồn trong biển Đông. Vùng nguồn sóng thần lớn nhất trong vùng biển Đông là các đới hút chìm ở vùng biển phía tây Philippines. Động đất trong đới này và trong vùng biển Đông nói chung có đặc điểm: động đất trên 5 độ Richter là 3 năm/lần; trên 5,5 độ Richter là 7 năm/lần; trên 6 độ Richter là 20 năm/lần; trên 6,5 độ Richter là 60 năm/lần. Động đất cực đại được dự báo là 7 độ Richter. Tuy nhiên, tần suất động đất trong vùng biển Việt Nam thấp hơn trong toàn vùng biển Đông rất nhiều, chỉ bằng 1/20. Nó cũng thấp hơn nhiều so với tần suất lặp lại động đất trên đất liền (chỉ bằng 1/2). Mặc dù chưa phát hiện thấy sóng thần ở Việt Nam trong các trận động đất sóng thần ở các đới hút chìm tây Philippines, nhưng vẫn phải coi các đới này là nguồn sóng thần đe dọa vùng bờ biển Việt Nam. PGS.TS Phạm Văn Thục, nguyên cán bộ khoa học của Viện Vật lý - Địa cầu - người nhiều năm nghiên cứu về ĐĐST đã có ước tính về thời gian, độ cao cực đại sóng thần truyền từ đới này đến một số vùng của bờ biển Việt Nam. Kết quả cho thấy: sóng truyền đến Nha Trang mất 2 giờ 12 phút, độ cao 1,5m; đến bờ biển đồng bằng sông Hồng là 5 giờ 30 phút, độ cao 2m; đến bờ biển đồng bằng sông Cửu Long là 5 giờ 25 phút, độ cao 4m |
(♥ Góc Thơ ♥)
Truyện cười
..::Chát chít tán gẫu::..
|