|
Sau gần 18 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Namđã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Trong giai đoạn 1989 - 2003, GDP của Việt Nam tăng gần 2,67 lần, với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hằng năm là 7,28%.
Cũng trong giai đoạn này, xuất khẩu của Việt Nam tăng 10,27 lần, từ 1964 triệu USD (năm 1989) lên 20 176 triệu USD (năm 2003), với tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 19,04%, cao gấp 2,6 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Có thể thấy, sự tăng trưởng mạnh mẽ của xuất khẩu đã tác động rất tích cực đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn vừa qua. Đây là vấn đề rất có ý nghĩa, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
1 - Tác động của xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế của một quốc gia theo bảng cân đối tổng sản phẩm quốc dân là do tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu của chính phủ, xuất khẩu và nhập khẩu (tức cán cân thương mại quốc tế) đóng góp. Vì vậy, xem xét tác động của xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chúng ta cần xem xét thông qua các khía cạnh, như: mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu; đóng góp của xuất khẩu trong tỷ trọng GDP; đóng góp của xuất khẩu đến tốc độ tăng trưởng GDP.
a - Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
Rõ ràng, xuất khẩu là một bộ phận quan trọng trong GDP, mỗi sự thay đổi của xuất khẩu sẽ kéo theo sự thay đổi lớn của GDP. Đồ thị 1 cho thấy, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối tương quan chặt chẽ với nhau. Khi tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao thì dẫn tới nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ (giai đoạn 1992 đến 1996). Khi tốc độ xuất khẩu có xu hướng đi xuống (1997) thì tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng bắt đầu giảm. Trong giai đoạn 1999 đến 2001, xuất khẩu lại tăng và thúc đẩy nền kinh tế tiếp tục được phục hồi và tăng trưởng kinh tế đạt với tốc độ khoảng 7%/năm.
Một điều chúng ta dễ nhận thấy là, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giao động mạnh trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế ít giao động. Điều đó chứng tỏ tốc độ tăng trưởng kinh tế có quán tính lớn hơn so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. Xuất khẩu dễ dàng lấy lại đà tăng trưởng ngay trong vòng một năm, trong khi đó GDP phải mất vài năm sau mới có thể phục hồi lại được tốc độ tăng trưởng như trước. Sự giao động mạnh mẽ của xuất khẩu bên cạnh những ưu điểm cũng bộc lộ một vài nguy cơ, đó là sự kém bền vững của tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam - một đất nước chủ yếu vẫn còn xuất khẩu sản phẩm sơ chế. Do đó, cần phải có biện pháp quản lý tốt xuất khẩu mới bảo đảm được sự tăng trưởng bền vững.
Trong giai đoạn nền kinh tế phát triển nhanh, Chính phủ đã có những biện pháp tích cực để duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu luôn đạt ổn định ở mức cao, do đó đã không gây xáo trộn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như xuất khẩu đi xuống, Chính phủ đã ngay lập tức có những chính sách kịp thời để thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng trở lại (1999 và 2003). Điều này đã giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao so với các nước trong khu vực sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
b - Đóng góp của xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế
Trong giai đoạn vừa qua, xuất khẩu đã góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Từ năm 1989 đến 2003, tỷ trọng của xuất khẩu trong GDP liên tục tăng. Năm 1989 xuất khẩu chỉ chiếm 21,81% trong tổng GDP (theo giá so sánh năm 1994) thì năm 2002 tăng lên 47% và năm 2003 đạt gần 50%. Đóng góp của xuất khẩu trong tỷ trọng GDP ngày càng tăng, và được chia thành 2 giai đoạn rõ rệt. Trong giai đoạn đầu (1989-1996), đóng góp của xuất khẩu trong tỷ trọng GDP trung bình chỉ đạt 22,7%, đến giai đoạn tiếp theo (1997 - 2003) tăng lên gần gấp đôi so với giai đoạn trước: 43,7%. Điều này cho thấy, xuất khẩu là một nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm qua. Đặc biệt từ sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, xuất khẩu nổi lên là một động lực mới giúp cho tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao so với các nước trong khu vực.
Để đánh giá sâu hơn đóng góp của xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, chúng ta xem xét đóng góp của xuất khẩu đến tốc độ tăng trưởng GDP. Đồ thị 2 cho thấy, xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong tốc độ tăng trưởng GDP ở Việt Nam giai đoạn 1989 - 2002. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình là 7,28%, trong đó xuất khẩu đóng góp khoảng 55,3% cho tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, khu vực phi xuất khẩu (sản xuất để tiêu dùng trong nước) đóng góp khá thấp đối với tăng trưởng kinh tế. Không có gì ngạc nhiên khi khu vực phi xuất khẩu đóng góp vào tăng trưởng kinh tế thấp nhất trong giai đoạn 1997 - 1999, là giai đoạn cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực nổ ra và ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam. Trong giai đoạn 1997 - 1999, cầu trong nước giảm mạnh, vì vậy sản xuất các sản phẩm tiêu dùng trong nước giảm xuống mức thấp nhất. Sự đình trệ của nhu cầu trong nước lại tạo thuận lợi cho khu vực xuất khẩu phát triển mạnh. Kết quả là tỷ giá hối đoái giảm. Điều đó đã tạo điều kiện khuyến khích đầu tư sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Vì vậy, xuất khẩu đã đóng góp lớn đến tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này.
Sau rất nhiều cố gắng của Chính phủ để "kích cầu", đóng góp của khu vực phi xuất khẩu đã tăng lên trong những năm gần đây. Tuy nhiên, sự đóng góp của khu vực này trong GDP vẫn còn rất hạn chế. Điều đó cho thấy, chính sách thay thế nhập khẩu của Việt Nam đã khá thành công trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, chính sách thay thế nhập khẩu không còn được duy trì, nguyên nhân là do chính sách thay thế nhập khẩu của Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp nhà nước - khu vực còn làm ăn kém hiệu quả, thụ động chờ bảo hộ.
Trên phương diện tổng cầu, xuất khẩu đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Trong giai đoạn đầu (1989 - 1992), xuất khẩu đóng góp rất nhỏ bé đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trung bình trong giai đoạn này tốc độ tăng trưởng GDP tăng 6,53% trong đó xuất khẩu chỉ đóng góp được 0,36%. Trong những năm tiếp theo, xuất khẩu ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Trong khi đó đóng góp của đầu tư và tiêu dùng cuối cùng vào tăng trưởng GDP có xu hướng giảm. Mặc dù Chính phủ đã có nhiều chính sách "kích cầu" nhưng tình hình cải thiện không đáng kể, đầu tư trong nước và tiêu dùng vẫn đóng góp thấp vào tốc độ tăng trưởng GDP. Kết quả này gợi ý rằng, đầu tư trong nước ở Việt Nam còn chưa hiệu quả và bộc lộ nhiều yếu kém, đặc biệt là vốn đầu tư ở các doanh nghiệp nhà nước. Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế, nếu tình hình tài chính của các doanh nghiệp nhà nước không được cải thiện thì đây sẽ là vấn đề đáng lo ngại đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm tới. Ngược lại, xuất khẩu lại nổi lên là động lực của tăng trưởng kinh tế Việt Nam, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực; góp phần quan trọng tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá ở Việt Nam trong thời gian vừa qua.
2 - Một số yếu kém hiện tại của xuất khẩu cản trở tăng trưởng bền vững kinh tế của Việt Nam
- Tuy có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh, nhưng quy mô xuất khẩu của nước ta còn quá nhỏ so với các nước trong khu vực. Kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người năm 2003 mới đạt khoảng 250 USD/người/năm. Trong khi đó, năm 2000, Trung Quốc đạt 358,8 USD/người/năm; Thái Lan đạt 1 113,8 USD/người/năm; Ma-lai-xi-a đạt 4 211,8 USD/người/năm; Xin-ga-po đạt 34 468,8 USD/người/năm. Như vậy, chúng ta có một khoảng cách khá lớn về giá trị xuất khẩu đầu người giữa Việt Nam và các nước trong khu vực, và khoảng cách này ngày càng được mở rộng hơn. Điều này tiềm ẩn một nguy cơ không phải là mới, đó là nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực. Vì vậy, xuất khẩu nói riêng và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nói chung có thể sẽ càng ngày càng bị lùi lại nếu như chúng ta không tiếp tục tăng cường xuất khẩu.
- Xuất khẩu của Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao trong cơ cấu GDP, do đó một sự biến động của xuất khẩu sẽ có ảnh hưởng nhất định đến tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam trên trường quốc tế rất nhỏ bé (năm 2002 chỉ chiếm có 0,21%). Hơn nữa, khu vực phi xuất khẩu làm ăn không hiệu quả, đóng góp nhỏ bé đến tăng trưởng kinh tế, thậm chí thụt lùi trong một vài giai đoạn. Các doanh nghiệp Việt Nam ít quan tâm đến thị trường trong nước, để cho hàng hóa nước ngoài tràn ngập thị trường nội địa. Điều này cho thấy, nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc khá nhiều vào thị trường bên ngoài, kém chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, nền kinh tế dễ bị tổn thương bởi các "cú sốc" từ bên ngoài và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong tương lai của Việt Nam. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ năm 1997 là minh chứng rõ ràng cho điều này.
- Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian vừa qua khá hợp lý, tuy nhiên, xuất khẩu của Việt Nam vẫn phụ thuộc khá nhiều vào thị trường châu Á (khoảng 55%) và có xu hướng dịch chuyển mạnh sang thị trường Hoa Kỳ, ít quan tâm đến các thị trường khác. Do đó, mỗi khi có sự biến động của các thị trường châu Á hay Mỹ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến xuất khẩu của Việt Nam và làm cho nền kinh tế tăng trưởng kém bền vững. Hơn nữa, các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là các nước ở Đông - Nam Á có cùng lợi thế cạnh tranh với nhiều hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Vì vậy, khả năng tăng xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường này là có giới hạn. Do đó, cơ cấu thị trường xuất khẩu hiện nay có thể sẽ cản trở tăng trưởng kinh tế bền vững của Việt Nam trong những năm tới.
- Thâm hụt thương mại của Việt Nam khá lớn, chủ yếu được tạo ra bởi thay thế nhập khẩu của các doanh nghiệp nhà nước. Năm 1996, thâm hụt thương mại gần 16,7% trong GDP, năm 2002 gần 18%, gấp đôi so với mức hợp lý của các nước đang phát triển. Trong bối cảnh này, nếu xuất khẩu không được thúc đẩy, hiệu quả sản xuất thay thế nhập khẩu không được cải thiện thì nền kinh tế sẽ phải đối mặt với một rào cản lớn liên quan đến cán cân thanh toán, và tăng trưởng kinh tế sẽ giảm.
- Trong cơ cấu hàng xuất khẩu, tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế còn nhiều, chiếm khoảng 70%. Các hàng hóa xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn chủ yếu là dầu thô, gạo, cà-phê, cao-su,... Những hàng hóa sơ chế này có độ co giãn thấp, giá cả luôn luôn không ổn định và có xu hướng đi xuống. Hơn nữa, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là gia công cho nước ngoài, nên phần giá trị gia tăng thuần túy trong các sản phẩm còn quá thấp. Vì vậy, trong những năm tới, Việt Nam cần phải nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu sang xuất khẩu hàng chế biến, nếu không sẽ gây nhiều khó khăn cho tăng trưởng kinh tế.
- Chất lượng hàng hóa xuất khẩu và khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế thấp. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế. Do đó, chất lượng và năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu nếu không được cải thiện thì tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ chậm lại trong tương lai không xa.
- Một vấn đề nữa có liên quan đến xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế đó là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay, đặc biệt là gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO). Việc chậm gia nhập WTO sẽ ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu cũng như tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm tới. Như chúng ta đều biết, nếu Việt Nam không kịp gia nhập WTO vào năm 2005 thì xuất khẩu dệt may của Việt Nam - một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Hơn nữa, việc trông chờ, ỷ lại vào bảo hộ của các doanh nghiệp trong nước tất yếu sẽ dẫn đến sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả. Vì vậy, trong bối cảnh này, nếu chúng ta càng kéo dài quá trình đàm phán gia nhập WTO thì Việt Nam càng đứng ngoài "cuộc chơi" toàn cầu hóa về kinh tế; các doanh nghiệp trong nước càng trông chờ bảo hộ, làm ăn kém hiệu quả.
3 - Một vài đề xuất, kiến nghị
Một là: Về chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu.
1 - Tiếp tục thúc đẩy xuất khẩu những mặt hàng sơ chế trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh tĩnh của quốc gia như điều kiện tài nguyên thiên nhiên, lực lượng lao động dồi dào...; đồng thời, đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu, nâng dần tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu qua chế biến. 2 - Dịch chuyển cơ cấu xuất khẩu từ chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm sơ chế sang xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế biến sâu, và các hàng hóa xuất khẩu đòi hỏi trình độ, công nghệ cao để thỏa mãn các nhu cầu khó tính của thị trường thế giới. Tham gia vào phân công lao động quốc tế ở trình độ phát triển cao. Chỉ có phát huy lợi thế so sánh động mới là nhân tố quyết định bảo đảm tăng trưởng bền vững ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Hai là: Về các nhân tố đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam phần lớn vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu sản xuất từ nước ngoài. Rất nhiều mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam như may mặc, giày dép chủ yếu là nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài, nguyên liệu cung cấp trong nước chỉ chiếm khoảng 10%. Vì vậy, cần khuyến khích phát triển các ngành cung cấp "đầu vào" mà Việt Nam có tiềm năng, đặc biệt là cung cấp các "đầu vào" cho xuất khẩu. Đây là biện pháp cơ bản để bảo đảm sản xuất ổn định, giảm chi phí sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu và năng lực cạnh tranh.
Ba là: Về cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam.
Trong thời gian qua, cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam khá hợp lý, song vẫn tồn tại một số nhân tố không bền vững trong tương lai. Do đó, Nhà nước cần tập trung hướng các doanh nghiệp xuất khẩu vào tất cả các thị trường. Điều đó có nghĩa là bên cạnh việc ưu tiên hàng đầu cho các thị trường phát triển cao như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, chúng ta cần tiếp tục duy trì và phát triển các thị trường truyền thống và các thị trường có trình độ phát triển thấp như các nước châu Phi và các nước trong khu vực. Việc đa dạng hóa thị trường theo hướng ưu tiên một số thị trường trọng điểm sẽ bảo đảm tăng cường xuất khẩu và tránh bị phụ thuộc quá nhiều vào một vài thị trường nào đó.
Bốn là: Về chính sách xuất nhập khẩu.
Như đã đề cập ở trên, chính sách thay thế nhập khẩu của Việt Nam là nguyên nhân chính tạo ra thâm hụt thương mại cao trong những năm gần đây. Thâm hụt thương mại chưa hẳn là xấu, nhưng nếu thâm hụt thương mại do bảo hộ thay thế nhập khẩu kém hiệu quả một nguy cơ cho tăng trưởng bền vững của quốc gia trong tương lai. Vì vậy, chúng ta cần cải cách chính sách thay thế nhập khẩu theo hướng: a - Chỉ bảo hộ những ngành, lĩnh vực mà Việt Nam có tiềm năng và lợi thế so sánh, đặc biệt là những ngành có tiềm năng phát huy lợi thế so sánh động trong tương lai; b - Nhanh chóng sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước - khu vực được bảo hộ cao nhưng kém hiệu quả; c - Bảo đảm bình đẳng về các chính sách ưu tiên của Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng và các hoạt động khác nói chung giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Năm là: Về nâng cao năng lực cạnh tranh.
Cần nâng cao năng lực cạnh tranh trên cả 3 góc độ: nền kinh tế, đơn vị sản xuất, kinh doanh và sản phẩm hàng hóa. Cụ thể là: a - Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia bằng cách tạo dựng nhanh chóng và đồng bộ các yếu tố cấu thành nên năng lực cạnh tranh quốc gia như kết cấu hạ tầng, trình độ quản lý, mức độ ổn định và đồng bộ của hệ thống chính sách; b - Phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ thông qua việc tích cực chuyển giao công nghệ tiên tiến của nước ngoài, tiến đến làm chủ công nghệ, và quan trọng hơn là cần đầu tư cho nghiên cứu phát triển khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và viễn thông; thiết lập thị trường khoa học - công nghệ; c - áp dụng rộng rãi hệ thống quản lý chất lượng quốc tế, xây dựng thương hiệu, cải tiến mẫu mã chủng loại và các dịch vụ sau bán hàng.
|
C | H | B | T | N | S | B |
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
|
20
|
21
|
22
|
23
|
24
|
25
|
26
|
27
|
28
|
29
|
30
| | | | |
|