Apr 4 2008, 09:47 AM
Bởi: duynhien
NGUYỄN VIẾT CHUNG VÀ TIẾNG GỌI CỦA CHÂN THIỆN MỸ TRẦN DUY NHIÊN Một con người
lặng lẽ. Tháng 04 năm 2002, linh mục Nguyễn Ngọc Sơn phối hợp
với Viện Y Học Dân Tộc Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức một khóa huấn luyện cho
những người thiện chí xung phong chăm sóc người nghiện ma túy. Tôi để ý đến một
người trung niên khắc khổ, lặng lẽ theo dõi chăm chú và cặm cụi ghi chép những
bài học về lý thuyết và chữa trị theo phương pháp cổ truyền do các bác sĩ đông
y của Viện Y Học giảng dạy. Tôi hỏi một nữ tu trong ban tổ chức xem người ấy là
ai. Câu trả lời làm tôi ngỡ ngàng: Đó là bác sĩ tây y Nguyễn Viết Chung, một
chuyên viên về ký sinh trùng và da liễu. Hai tháng sau, cũng tại Viện Y Học Dân Tộc, cha Sơn
tổ chức một khóa cai nghiện mang tên là Khóa Phục Sinh. Các bác sĩ của Viện phụ
trách phần chữa trị thể lý. Các linh mục, tu sĩ và một vài giáo dân đến giúp
phần củng cố tâm linh. Một hôm, tôi đến dự giờ cầu nguyện buổi tối do một nữ
giáo dân hướng dẫn. Sau phần trình bày lý thuyết, vị ấy yêu cầu những ai thấy cần
được đặt tay cầu nguyện thì hãy bước lên. Bác sĩ Chung cũng là một người theo
giúp khóa ấy. Ông bước đến đầu tiên, quì xuống trước mặt người giáo dân kia,
xin đặt tay cầu nguyện cho mình. Cử chỉ khiêm nhường này làm cho nữ tu phụ
trách nhóm cai nghiện cảm động nói với tôi: Thầy Chung là phó tế sắp được thụ
phong trong một ngày gần đây. Cuối năm 2002, tôi được dòng Vinh Sơn mời đến dạy
tiếng Pháp cho một số thầy chuẩn bị đi học thần học ở nước ngoài. Tại đây tôi
gặp lại thầy phó tế bác sĩ Chung. Thế rồi qua những chia sẻ khiêm tốn nhưng đầy
chân tình, tôi biết được chiều kích cao vời của một con người mờ nhạt, thậm chí
điên rồ, nếu ta nhìn với cặp mắt của xã hội ngày nay. Sau đây là hành trình của
một tâm hồn qua những chặng đường hiếm thấy.
Khi nói về cuộc di cư năm
1954, người ta nghĩ đến gần một triệu tín hữu công giáo đành rời quê cha đất tổ
để đi vào Chung không còn nhớ gì về
miền núi nơi mình sinh ra, vì năm 1960 cha cậu đã chuyển về Sống trong hoàn cảnh này, trí
óc non nớt của cậu nảy sinh một ước mơ kèm theo một quyết tâm: phải học cho thật giỏi để cứu gia đình thoát khỏi
cảnh nghèo. Thế là cậu cắm cúi học tập trong những trường công lập hạng 2 ở “Khi nhìn lại quá khứ, tôi thấy chương trình của Chúa thật huyền diệu. Nhờ học nhảy lớp đệ tam mà tôi không bị nhập ngũ theo lệnh tổng động viên 1973, sau ‘Mùa Hè Đỏ Lửa’. Nhờ những cơn thịnh nộ của cha mà đến năm 39 tuổi tôi vẫn còn độc thân để tự do đáp lại tiếng gọi triệt để của Thiên Chúa”.
Đọc tiểu sử cố giám mục Cassaigne, Chung không để ý
đến chức vị của ngài, mà chỉ thấy tấm lòng mênh mông của một mẫu người tuyệt đẹp.
Tuổi 18 là tuổi say mê các thần tượng và gửi gắm vào đấy những ước mơ thầm kín
chực chấp cánh bay cao. Cái Đẹp trong cuộc sống đức cha Sanh đã biến ngài thành
thần tượng của anh. Những thanh niên khác mơ đến tiền tài danh vọng để tìm ra hạnh
phúc, còn Chung thì mong tìm hạnh phúc bằng cách sống một cuộc sống có ý nghĩa
và chết đi cho những người bất hạnh theo gương của thần tượng mình. Anh quyết định
thi vào y khoa: đấy là một nghề có thu nhập cao giúp anh có thể đưa gia đình ra
khỏi cảnh túng thiếu, nhưng đồng thời cũng là phương tiện để anh chăm sóc người
cùi noi bước đức cha Sanh. Sau một năm SPCN (Sciences Physiques, Chimiques et
Naturelles = Lý Hóa Vạn Vật), Chung thấy ước mơ của mình trở thành viển vông.
Việc thi vào y khoa nằm ngoài tầm tay của những người thuộc giai cấp cùng đinh
như anh. Anh thấy rõ điều này khi nạp đơn thi tuyển. Hầu hết các sinh viên thi
vào y khoa đều là con cháu của các bậc có chức có quyền hay của các doanh nhân
giàu sụ. Đa số đã tốt nghiệp từ một trường trung học Pháp hay một trường công lập
nổi danh. Xuất thân từ một gia đình mà người cha là trung sĩ nhất, với kiến thức
học được từ một trường tư thục vô danh, Chung thấy mình toan làm chuyện đội đá
vá trời. Gia đình anh nghĩ rằng anh chạy theo một mục tiêu vượt quá sức mình
nên khuyên anh bỏ ý định thi vào y khoa. Thế nhưng anh vẫn kiên trì học ngày học
đêm mà trong lòng cứ lo sợ miên man. Nhìn thấy mẹ ngày ngày cầu khẩn những người
đã khuất phù hộ cho gia đình, anh bỗng tin vào những điều huyền diệu. Anh lên
Lăng Ông Bà Chiểu, thắp nhang khấn vái với cụ Lê Văn Duyệt. Anh thầm mặc cả với
cụ: “Xin giúp con đậu vào y khoa. Để đáp
lại, con hứa, sau khi trở thành bác sĩ, sẽ phục vụ cho người cùi”. Thế rồi
anh đậu vào y khoa ngay lần đầu tiên đi thi, năm 1974. Đối với nhiều người
khác, thứ hạng 181/213 hẳn không có gì đáng nói, nhưng đối với bản thân anh và
đối với gia đình, đấy là một ảo tưởng đã biến thành sự thật một cách thần kỳ. Ngày Cái Thiện ấy rất gần mà cũng rất xa đối với anh. Có
lần giáo sư Lichtenberger yêu cầu sinh viên điền vào tờ khai báo lý lịch trong
đó có một ô ghi: nguyện vọng tương lai của anh (chị). Chung điền vào mọi ô khác
một cách nhanh chóng rồi ngồi mãi trước ô ‘nguyện vọng tương lai’ mà không biết
phải viết làm sao. Đối với các bạn khác thì không có gì phải suy nghĩ. Khi bước
vào y khoa, họ đã có những hoài bão rõ ràng cho ngày mai rồi: trở thành một bác
sĩ giỏi, theo học cao hơn ở nước ngoài, có một nơi làm việc xứng đáng, tìm cơ hội
để thăng tiến trong nghiệp vụ và trong xã hội con người… Khi hết giờ, Chung nộp
tờ khai mà ô nguyện vọng vẫn còn để trống. “Tôi
xấu hổ không dám thổ lộ cho giáo sư Lichtenberger biết rằng nguyện vọng tương
lai của mình là làm sao trở nên giống như giáo sư”. Con đường học vấn tưởng chừng đã êm ả thì biến cố
1975 đến đảo lộn mọi sự. Trường Y Khoa là một trong những trường mở cửa lại sớm
nhất sau ngày 30 tháng 04, tuy nhiên đối với Chung, điều kiện tài chính ít ỏi để
học tập đã biến mất. Cha anh là một trung sĩ nhất trong chế độ cũ nên không phải
đi học tập, nhưng người anh cả từng là trung úy thì đang ở trong trại tập trung
cải tạo. Chung không thể nào đang tâm nhìn cha hằng ngày đạp chiếc xích lô vắng
khách để nuôi nấng năm đứa con đang lớn như thổi ở nhà. Anh thấy mình vừa có bổn
phận phải chia sẻ gánh nặng với cha vừa phải tiếp tục đi học. Hàng đêm, anh thay
cha đạp xích lô từ 7 giờ đến 11 giờ khuya. Sau một thời gian, anh không còn sức
lực để vừa đi học ban ngày vừa đạp xích lô ban đêm, nên đành phải chấp nhận để
cha và em trai mình tìm kế sinh nhai cho cả nhà, còn anh thì theo học để mong
tìm một lối ra cho gia đình vào những năm về sau. Ý thức sự thiếu hụt của mọi
người, Chung không đòi hỏi một điều gì cả. Đêm đêm, anh xin vào trực bệnh viện mong
có cơ hội thực tập qua các trường hợp cấp cứu. Có những đêm phải thức trắng rồi
sáng hôm sau không có một đồng dính túi để điểm tâm, anh vào lớp học mà mắt cứ
hoa lên vì buồn ngủ và vì đói. “Phải trung
thành với ý nguyện ban đầu, bằng bất cứ giá nào”… Với quyết tâm ấy, chàng
thanh niên Chung mỗi năm lên một lớp cho đến 1978. Bước vào năm thứ năm, mọi
sinh viên phải theo một chuyên khoa. Các sinh viên trình lên một bản gồm 3 nguyện
vọng. Nhớ ơn người mẹ đã cơ cực qua 9 lần sinh con, mà mỗi lần là một biến cố
thập tử nhất sinh, Chung chọn ngành ‘sản khoa’ ở nguyện vọng 1. Trong niên khóa
ấy, giáo sư Đạt, một bác sĩ chuyên về nội thần kinh, đã làm cho anh thích thú
môn học này, vì thế anh ghi ‘nội thần kinh’ ở nguyện vọng 2. Còn nguyện vọng 3,
anh đành ghi ‘da liễu’ để có thể trả lời với cụ Lê Văn Duyệt rằng mình không thất hứa. Ngày
nghe tuyên bố về chuyên khoa của mình, Chung hụt hẫng. Anh bị phân vào chuyên
khoa ‘ký sinh trùng sốt rét’. Anh chẳng vào được khoa nào trong ba nguyện vọng
anh ghi. Suốt hai năm còn lại tại trường Y Khoa, anh sống với tâm trạng đằn vặt
của một người thất tín thất trung. Anh tự trách: “Vì mình không trung thành với lời hứa phục vụ người cùi, nên đấng bề
trên chuyển mình sang khoa ký sinh trùng để xử phạt về tội bội tín!” Anh ra trường năm 1980 và được phân công đến Phân Viện
Sốt Rét TPHCM. Quá chán nản với công tác này, anh bỏ nhiệm sở mà về gia đình
hành nghề chui, với tư cách là một bác sĩ đến từng gia đình bệnh nhân để chữa
trị. Ít ra, anh cũng thực hiện được một trong hai điều mình tự hứa trước kia.
Tuy không có phòng mạch như bao nhiêu bác sĩ khác, nhưng được cái là anh dễ mến,
mát tay và nhận thù lao tương đối hạ, nên thu nhập cũng tạm đủ để giúp gia đình
thoát khỏi cảnh túng thiếu trường kỳ. Cha anh ngưng đạp xích lô. Các em anh có
phương tiện học hành hay thực hiện những mong ước của mình. Thế nhưng tự đáy
lòng, tiếng trách móc của lương tâm không ngừng dày xéo anh: “Mày là một tên thất trung thất tín!” Năm
1984, sau khi cưới vợ gả chồng cho các em, cũng như giúp họ ổn định cuộc sống,
Chung quyết định trả cho xong món nợ lương tâm bằng cách bỏ lại mọi sự mà đi
chăm sóc cho bệnh nhân cùi. Ý nghĩ đầu tiên là phải phục vụ tại Di Linh, nơi mà
thần tượng thứ nhất của anh đã thành lập, đã sống, đã chết và hiện nay mộ phần ngài
vẫn còn nằm tại đấy, trơ gan cùng tuế nguyệt như một chứng tích tình yêu. Anh
lên trại phong Di Linh xin nữ tu phụ trách cho phép anh làm việc ở đấy. Các nữ
tu rất trân trọng ý định của anh nhưng không thể đáp ứng yêu cầu, vì Trại Phong
lúc bấy giờ đã trở thành một cơ sở của Nhà Nước mà các nữ tu không có quyền tuyển
dụng nhân viên. Anh trở về Trường Y Khoa xin chuyển lên Di Linh. Về mặt hành
chánh, nhà trường không thể bổ nhiệm anh vào trại phong mà chỉ có thể chuyển anh
lên Sở Y Tế Lâm Đồng. Cầm giấy tờ trong tay, anh trình diện với vị trưởng phòng
tổ chức Sở Y Tế và nói lên nguyện vọng được về Trại Phong Di Linh. Bà trưởng
phòng ngạc nhiên hỏi: -
Anh có điên không? Hay là
anh bị cùi? -
Nếu tôi cùi thì bà đã thấy rồi.
Còn có điên hay không thì tôi không biết, nhưng điều tôi biết là tôi mong muốn
phục vụ những người cùi. -
Anh sẽ nhận việc tại trạm sốt
rét, vì chuyên khoa của anh là ‘ký sinh trùng sốt rét’ chứ không phải là ‘da liễu’. -
Tôi lên đây vì muốn phục vụ
tại trại phong Di Linh. Nếu bà không cho phép thì tôi về lại TP Hồ Chí Minh chứ
không làm việc ở bất cứ nơi nào khác. Năm 1992, anh xuống Bến Sắn để nhận nhiệm sở mới. Thế
là mãn nguyện. Ước mơ tuổi thanh niên đã trở thành hiện thực. Từ sáng thứ hai đến
trưa thứ sáu, anh làm việc tại trại phong Bến Sắn để bước cùng nhịp với các thần
tượng hầu trung thành với lời hứa của mình. Từ tối thứ sáu đến chiều chủ nhật,
anh về Thế nhưng anh lại phải đối diện với những vấn đề mới
của cuộc sống. Tại trại phong, anh thấy mình sống ở giữa hai nhóm người hoàn
toàn trái ngược trong thái độ hành xử. Nhóm thứ nhất gồm những người thiện chí,
mà đa số là các Nữ Tử Bác Ái, chỉ sống tất cả cho bệnh nhân; nhóm thứ hai gồm một
số người nghĩ đến tư lợi của mình nhiều hơn là lợi ích người bệnh. Với tư cách
là trưởng phòng y vụ, bác sĩ Chung được nhóm thứ hai săn đón để lôi kéo về phe
mình, nhưng anh lại bị cuốn hút bởi nhóm thứ nhất, vì qua họ anh hầu như chạm
được cái Chân tiềm tàng nơi những người mà anh từng đặt làm khuôn mẫu cho cuộc
đời mình: Giám mục Cassaigne và linh mục Lichtenberger. Chính các nữ tu này đã
khiến cuộc đời anh dứt khoát rẽ qua một bước ngoặt triệt để. “Tôi còn nhớ sự kiện sau đây. Có lần hai anh
em người Pháp đều là linh mục đưa một bác sĩ cũng quốc tịch Pháp đến cưa chân cho một số bệnh nhân tại trại phong Bến Sắn. Vết thương của một người bị nhiễm trùng, nên anh đã lớn tiếng với
tôi: “Ông dùng tôi làm con vật thí nghiệm!”. Tôi quá tức giận nên đã nặng lời với
anh. Một xơ cao niên chứng kiến cảnh này mà không nói một lời nào. Vài ngày
sau, khi mọi chuyện đã êm, xơ nhẹ nhàng bảo tôi: -
Bác sĩ Chung à, bệnh nhân
đau chứ bác sĩ có đau đâu! Anh ấy bị cưa chân chứ bác sĩ có bị cưa chân đâu! Những
gì bác sĩ làm cho bệnh nhân, bác sĩ đừng cho là nhiều rồi. Những điều bác sĩ
làm cho họ không đền bù được nỗi đau cả đời của họ đâu! Tôi bỗng thấy
nơi xơ cao niên ấy một sức mạnh tinh thần họa hiếm. Ai đã giúp cho xơ có được
lòng quảng đại thanh thản như thế? Chắc là Chúa của xơ. Nếu Chúa của xơ có thể
ban cho xơ một sức mạnh như thế, thì Ngài cũng phải là Chúa của tôi!” Ý nghĩ rằng Chúa của các Nữ Tử Bác Ái cũng có thể là
Chúa của mình vừa làm cho anh vui, vừa làm anh e ngại. Lời dặn dò của mẹ, từ
thuở anh còn là một cậu bé tiểu học cư ngụ trong xóm đạo, cứ văng vẳng bên tai:
“Chung không được đi đạo nhé. Người công
giáo kỳ cục lắm, cứ dụ người ta theo đạo. Đạo ai nấy giữ chứ!”. Quả là những người công giáo ở đây thật kỳ cục. Nhất
là nữ tu công giáo. Nhưng kỳ cục không phải vì họ dụ dỗ anh theo đạo, mà vì họ
sống trên đời nhưng không bao giờ nghĩ đến bản thân mình. Một trong các nữ tu
mà anh có cơ may cộng tác một thời gian ngắn là xơ Maria Phạm Thị Ngọc Loan, được
mọi người trong trại gọi với cái tên thân thương là Dì Hai. Khi bác sĩ Chung về
trại phong, Dì Hai đang ở đấy với hai tư cách: Phó Giám Đốc trại phong và Xơ Phục
Vụ (soeur servante = dì bề trên) cộng đoàn Nữ Tử Bác Ái Bến Sắn. Anh nghe kể lại
rằng Dì Hai về đây năm 1976, lúc mà chế độ chăm sóc các bệnh nhân phong hầu như
không có gì, trong khi những nhân viên mới đổi tới lấy hết cái này đến cái nọ
trong trại về làm của riêng. Dì đã phải đứng ra bảo vệ cho bệnh nhân và cỡi chiếc
gắn máy tồi tàn chạy bằng xăng pha dầu lửa về thành phố Hồ Chí Minh mỗi tuần
nhiều lần hầu tìm nguồn lương thực cho họ, đồng thời kêu gọi và đưa về Bến Sắn
những bệnh nhân bỏ trại lên sống vất va vất vưởng trên vỉa hè Sàigòn. Tim của
Dì đập theo từng nhịp của con tim bệnh nhân trong vòng 17 năm trường, để rồi
ngưng lại khi người ta phát hiện quá muộn bệnh ung thư trong hình hài của Dì.
Dì sợ rằng cho biết sớm thì nhà dòng sẽ cấm dì tiếp tục phục vụ bệnh nhân phong:
Dì đã hy sinh mạng sống mình cho họ, theo nghĩa đen. “Hôm ấy chúng
tôi sắp đi công tác từ TP Hồ Chí Minh. Biết rằng Dì Hai đang ở vào những giờ
phút cuối đời, tôi ghé lại 36 Tú Xương để chào từ biệt. Tôi nói: -
Dì Hai à, chút xíu nữa đây,
con với bác sĩ Quang và chị Bích Vân sẽ lên trại phong Di Linh mổ mắt cho bệnh
nhân trên ấy. Nghe tôi nói,
đôi môi héo hắt của Dì Hai thoáng nở một nụ cười. Tôi bước ra ngoài chờ xe. Xe chậm đến. Nghĩ rằng đây có lẽ là lần cuối cùng
còn gặp mặt Dì Hai, nên tôi luyến tiếc trở lại một vài phút cạnh Dì. Nghe tiếng
chân tôi vào, Dì Hai hé mở mắt, nhìn thấy tôi, mấp máy đôi môi để nói lên một
điều gì. Xơ chăm sóc ghé tai vào miệng Dì lắng nghe, rồi lặp lại cho tôi: “Chung -
Dì Hai hỏi - tại sao chưa đi?” Thế đấy! Đến giây phút cuối cùng của cuộc đời,
Dì Hai vẫn không nghĩ gì đến mình, mà chỉ nghĩ đến bệnh nhân. Không chỉ là bệnh
nhân tại Bến Sắn mà còn cả bệnh nhân tại Di Linh nữa!” Một bước ngoặt
triệt để. Chung! Tại sao
chưa đi?
Vâng, đã đến lúc bác sĩ Chung quyết định đi
đạo, đi theo con đường mà Dì Hai Loan đã từng đi. Sau đám tang của Dì Hai, anh
đến gặp Dì Camille Hạnh, giám tỉnh dòng Nữ Tử Bác Ái, và trình lên ý nguyện đi
tu để sống trọn vẹn cho bệnh nhân giống như các dì. Dì Hạnh thông cảm từ thâm
sâu mong ước của anh, vì dì cũng từng là một người chịu phép rửa vào tuổi trưởng
thành trước khi dâng hiến trọn đời mình cho Chúa với tư cách nữ tu. Trong thời
gian này, cha bề trên tổng quyền Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn đang có mặt
tại Ngày 28-08-1993, hai mươi năm sau bài báo của Chính
Luận, bác sĩ Chung đến dòng Tên tại Bình Dương gặp cha Hoàng Văn Đạt xin học
giáo lý tân tòng. Cha vui mừng báo anh hay rằng ngày hôm ấy Giáo Hội mừng lễ
thánh Âu Tinh, một người đã chịu phép rửa khi đang là một giáo sư lỗi lạc tại
Rôma, để rồi trở thành một linh mục và một giám mục thánh thiện và uyên bác tại
Hippone, một thành phố Châu Phi. Để đánh dấu cho bước ngoặt đáng ghi nhớ này, anh
chọn thánh Âu Tinh làm quan thầy mình. Âu Tinh Nguyễn Viết Chung lãnh nhận bí
tích thanh tẩy từ tay cha chính xứ Bến Sắn, linh mục Trần Thế Thuận, ngày
15-05-1994, tại nhà nguyện Trại Phong Bến Sắn. Ngày 15-09-1994, anh trở lên Đalat, nhưng lần này
không phải đến Sở Y Tế xin phục vụ người phong, mà đến 40 Trần Phú, trụ sở dòng
Truyền Giáo Vinh Sơn, để khởi sự tập luyện cuộc sống quên mình trọn vẹn. Muốn
thời gian tìm hiểu không gây trở ngại cho tương lai của bác sĩ Chung, nếu ơn gọi
linh mục không phải là con đường Chúa dành cho anh, bề trên Tu Hội Truyền Giáo
tại Việt Nam đề nghị anh làm quen với nếp sống tu trì tại Túc Trưng. Suốt một
năm ròng, mỗi tháng bác sĩ Chung làm việc 3 tuần liên tục ở Bến Sắn, và dành trọn
tuần thứ tư để sống tại nhà dòng Túc Trưng. Trong thời gian thử thách này, anh
đã chu toàn đúng mức hai vai trò trái ngược của mình: Bác sĩ trưởng tại Trại
Phong và em út trong cộng đoàn Vinh Sơn. Sau một năm, bề trên thấy rằng đã đến
lúc anh bỏ vai trưởng để chỉ còn sống trong vai út. Anh xin nghỉ việc tại Trại
Phong Bến Sắn và chính thức gia nhập Tu Hội Truyền Giáo ngày Thời gian nhà tập hẳn không dễ dàng gì cho một người
đã công thành danh toại rồi một sớm một chiều trở nên ‘lính mới’ phải vâng phục
mọi người, trong số đó có những thầy bằng nửa số tuổi của anh. Thế nhưng bác sĩ
Chung biểu hiện tư cách của một con người đã thực sự tự hủy theo gương Chúa
Kitô. Các thầy cùng thời với anh chân thành thổ lộ: “Anh Chung luôn là một mẫu gương khiêm nhường cho tất cả chúng em.” Nhà dòng cho phép tu sĩ Chung học dồn chương trình
triết học trong vòng một năm, để rồi khởi sự 4 năm thần học kể từ năm 1997. Ngày
25-03-2003, Giáo Hội trao thừa tác vụ linh mục cho thầy Âu Tinh Nguyễn Viết
Chung, qua lễ đặt tay của Đức Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống, tại nhà thờ Đức Mẹ Hằng
Cứu Giúp TP Hồ Chí Minh. Hành trình của một cậu bé sợ hãi trong xó nhà đã kết
thúc nơi bàn thánh. Một người khởi hành trong cái nghèo khó bị áp đặt, đi
cả một vòng đời, rồi đến đích trong sự khó nghèo tự nguyện. Một người đi từ nỗi
bất hạnh vì phải nghèo đến niềm hạnh phúc được sống nghèo. Một người suốt đời
mang trong mình tiếng gọi: Phải trung thành! Và nhờ lòng trung thành ấy mà linh
mục Nguyễn Viết Chung nhận được Tin Mừng Cứu Độ, không phải qua những lời rao
giảng, mà qua hành động cụ thể của những con người, để rồi từng buớc nghe được
cái Mỹ, thấy được cái Thiện, chạm được cái Chân xuất phát từ Chúa Kitô, Đấng
Tình Yêu muôn đời tận hiến. “Nếu tôi có một
lời để nhắn nhủ với người trẻ hôm nay, thì tôi chỉ nói với họ điều
này: Khi bạn phải sống trong hoàn cảnh của một người nghèo, bạn cần nỗ lực ban
đầu để vượt qua, nhưng hãy nhớ rằng mình luôn có những vấp váp. Rồi một ngày
nào đó bạn sẽ thấy rằng tiền không phải là trên hết. Điều làm cho cuộc đời mình
có ý nghĩa, ấy là phải trung thành. Tôi đã từng bất trung. Và đã phải thông qua
những kinh nghiệm chua chát.” “...Tôi còn nhớ
hôm cha tổng quyền chấp thuận cho tôi nhập dòng Vinh Sơn là ngày thứ bảy. Qua
hôm sau, ngày chúa nhật, các cha Dòng Camillo mở diễn đàn kêu gọi các thanh
niên dâng hiến đời mình với tư cách là bác sĩ linh mục. Đây là đặc sủng của
dòng ấy, và lời kêu gọi này rất phù hợp với tôi. Thế nhưng tôi đã trốn không
tham dự, vì muốn trung thành với Tu Hội Vinh Sơn. Tôi đã biết thế nào là giá phải
trả cho sự bất trung rồi.” Con đường của bác sĩ Chung tưởng chừng như kết thúc
tại cung thánh khi lãnh nhận chức linh mục. Tuy nhiên, từ nơi ấy lại khởi đầu
cho một hành trình mới. Bác sĩ Chung trở lại với những bệnh nhân Aids ở Mai
Hòa, với những người nghiện ma túy ở nhiều tổ chức và trung tâm khác nhau...
Nhưng lần này, qua việc chữa trị thân xác, linh mục Chung còn đem lại cho họ
bình an tâm hồn, một niềm bình an xuất phát từ Thiên Chúa của những người mình ngưỡng
mộ và cảm phục, mà giờ đây đã trở thành Thiên Chúa của chính mình. Với chức
linh mục, bác sĩ Chung làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa không chỉ bằng nghiệp
vụ và tác vụ, mà còn bằng cả đời sống của bản thân mình. Nhìn lại con đường đã qua, bác sĩ Chung thường xuyên
lặp lại phương châm mình đã chọn cho ngày thụ phong: “Tạ ơn Chúa, Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” Và nhìn vào ngày mai, linh mục Chung không ngừng trung
thành cam kết: “Điều khấn hứa cùng Ngài, con xin giữ trọn.” Thiên Chúa đã đến trong cuộc đời Nguyễn Viết Chung bằng
những bước đi nhè nhẹ. Nhưng mỗi lần Ngài đến là Ngài để lại dấu ấn sâu sắc
trong một tâm hồn biết lắng nghe. Giữa bao nhiêu thần tượng trên thế gian, Nguyễn
Viết Chung biết chắt lọc một vài khuôn mẫu định hướng cho cuộc đời mình: Đức
Cha Cassaigne, Cha Lichtenberger, Dì Hai Loan... đấy là chưa kể đến nhiều người
khác, trong đó có thân mẫu của mình, một người mẹ đã suốt đời âm thầm chịu đựng
cho đến khi mù lòa. Giữa các gương mặt ấy, có một nhân vật gần giống như Nguyễn
Viết Chung: Linh Mục Bác Sĩ Marcel Lichtenberger. Thế nhưng con đường Chúa dẫn
hai vị đi thì hoàn toàn trái ngược nhau. Năm 25 tuổi, cha Lichtenberger bị tình
yêu Thiên Chúa thúc bách phải đến với những con người bất hạnh tại Trung Hoa;
và trước những thương tích của Chúa Kitô thể hiện trên hình hài các bệnh nhân,
cha đã trở về ngồi lại trên ghế nhà trường để rồi trở thành một bác sĩ năm 48
tuổi. Ngược lại, Nguyễn Viết Chung tốt nghiệp bác sĩ năm 25 tuổi, thế rồi vì muốn
chia sẻ trọn vẹn sự khốn cùng của bệnh nhân nên rốt cục đã gặp Chúa Kitô chịu
đóng đinh trong những con người bất hạnh, và điều này khiến cho vị bác sĩ tận
tâm kia từ bỏ mọi sự để trở thành linh mục của Chúa vào tuổi 48. Một linh mục trở
thành bác sĩ đã là đèn soi cho một bác sĩ trở thành linh mục. Hành trình trái
ngược của hai linh mục bác sĩ này bộc lộ cho chúng ta một chân lý. Ai đến với
Thiên Chúa một cách chân thật và trung thành thì rồi sẽ liên đới với những con
người bất hạnh. Và ai liên đới với người cùng khổ một cách chân thật và trung
thành thì rồi sẽ gặp được Thiên Chúa từ nơi thâm sâu của lòng mình. |
Thực đơn người xem
Bài viết cuối
(♥ Góc Thơ ♥)
Tik Tik Tak
Truyện cười
Tin nhanh
Xem theo danh mục
Xem theo danh mục:
Blog chưa có danh mục nào. Tìm kiếm: |
Mạng xã hội của người Việt Nam.
VnVista I-Shine © 2005 - 2024 VnVista.com |