những mùa chuột phương Nam- tạp văn của Hồ Tĩnh Tâm
NGƯỜI LÍNH LẠI RA ĐI
UỐNG RƯỢU GIỮA ĐỒNG
NHỚ BẠN Ở TÂN HỒNG
MỘT CHIỀU MƯA
Bến Bình Lương hẹn tình tôi ở lại
Thơ Gởi
TƯƠNG TƯ CHIỀU
Gởi ai một chút niềm riêng
NIỀM TIN
VỀ MỘT NỤ CƯỜI ĐẮM ĐUỐI NGHE TIẾNG |
Bạn bè
Thực đơn người xem
Bài viết cuối
Tràm Chim Tam Nông
thyà trò Hồ Tĩnh Tâm trả lời phỏng vân ơ hờ tháng 5- Hồ Tĩnh Tâm CHUYỆN CHÓ Hồ Tĩnh tâm TÔI GỌI TÔI ƠI Hồ Tĩnh Tâm trò chuyện về tượng đài Bác Hồ ở TP HCM Con của biển truyện ngắn Hồ Tĩnh Tâm qua phà Cổ Chiên viết cho em từ kinh Dừa Đỏ Đêm sâu thẳm Tiền Giang thơ Hồ Tĩnh Tâm tản mạn sau đại hội nhà văn ĐBSCL và ĐNB Bình luận mới
tinhtam trong
Đỗ Minh Hiếu- CT tổ chức từ thiện TVUM
tinhtam trong Ngân Tuyền 36TATMDL Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Long tinhtam trong dòng sông Việt làm nên ngọc lạ tinhtam trong ĐẠI ĐỘI NỮ PHÁO BINH NGƯ THỦY tinhtam trong ĐẠI ĐỘI NỮ PHÁO BINH NGƯ THỦY Guest trong gà tre tui sưu tầm nè các bạn buinhan trong buổi sáng trên sông Long Hồ - Vĩnh Long luc nghi trong lời thề cỏ may Guest_hung_* trong gà tre tui sưu tầm nè các bạn Ke giau ten trong Ngân Tuyền 36TATMDL Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Long (♥ Góc Thơ ♥)
Tik Tik Tak
Truyện cười
Tin nhanh
thời tiết, tin nhanh, vàng, tỉ giá
thời tiết, tin nhanh, vàng, tỉ giá
Thời tiết
|
Thích nhất là dậm cù bắt chuột vào mùa lúa. Vì lúc này, chuột từ khắp nơi, kéo về đồng lúa rất nhiều. Khi các cánh đồng lúa đã gặt, người dân hay chất rơm thành từng đống trong ruộng, chúng tôi thi nhau dậm lên các đống rơm, dồn cho chuột chạy vào nấp trong một đống rơm lớn nào đó, ở giữa vòng dậm cù, rồi bủa lưới lên mà bắt. Chuột đồng mùa lúa, béo núng nính, thịt thơm ngon hơn bất cứ mùa nào trong năm.
NHỮNG MÙA CHUỘT PHƯƠNG NAM
Tạp văn: Hồ Tĩnh Tâm
Suốt cả tháng nay, trời lúc nào cũng mưa sầm sịch. Bầu trời luôn vần vũ những đám mây ướt sũng, nặng nề, chậm chạp. Da trời thi thoảng hé ra, thì bợt bạt màu xám chì, chẳng hứa hẹn gì có một ngày nắng ráo. Vậy mà đi nhà hàng, lạ thay, vẫn thấy người ta nhốt chuột đầy trong các lồng sắt. Chuột đồng. Chuột cống nhum. Chuột dừa. Ở Hương Sen, có lần anh bạn cùng tổ chuyên môn với tôi, gọi món chuột quay, thầy Toàn can, “đừng gọi chuột cống nhum thầy ơi, coi chừng nhầm phải chuột cống”. Bạn tôi nói, “nhà hàng lớn người ta giữ uy tín, có đâu chuyện treo đầu dê bán thịt chó mà sợ”. Thế nhưng chiều ý thầy Toàn, chúng tôi vẫn gọi thêm món thịt chuột đồng. Ai thích gì ăn nấy, cũng chỉ là chuột mà thôi.
Đêm qua trời cũng mưa. Mưa dầm dề, rả rích. Mưa khiến khí trời ẩm ướt và giá lạnh. Tôi bị cảm vì thời tiết, nhức đầu không chịu nổi, nên phải tắt đèn đi ngủ sớm. Nhưng dù đang cảm, theo thói quen, tôi ngủ sớm thì dậy sớm, mới ba giờ sáng đã thức. Nhớ lại chiều qua ngồi uống cà phê với anh bạn, anh ấy kể cho nghe hàng loạt chuyện, về việc đi vùng biên làm phóng sự về chuột. Săn bắt chuột. Mua bán chuột. Chế biến thịt chuột. Làm giàu từ chuột. Vậy là tôi ngồi viết về chuột.
Cần chi cá lóc cá trê
Thịt chuột thịt rắn nhậu mê hơn nhiều
Ca dao Nam Bộ
1.
Mùa khô năm 1974, tôi cùng tay trinh sát tiểu đoàn, vượt vòng vây trung đoàn 10, sư 7, băng đồng về trung đoàn bộ(E207) ở Kinh Chuối, nộp báo cáo quân lực. Sáng hôm sau, chúng tôi ăn quấy quá mỗi người mấy chén cơm nguội với muối mè, rồi ra đi vào lúc trời còn tờ mờ. Đồng đưng rộng ngút ngát. Đưng lác bị nắng thiêu cháy rụi, gục chết ràm rạp, đỏ quạch, vàng khè. Đi trên đồng cháy lúc này, rất dễ bị trực thăng soi bắn, nhưng có cái lợi là chúng tôi có thể quan sát được đối phương từ xa, có gì thì cứ nhảy xuống mấy cái mương cạn, vẫn còn dày đặc bình bát và lau sậy, tìm nơi ẩn nấp, hoặc nột quá thì đâu lưng, lợi dụng địa hình bắn trả; sợ nhất là lỡ gặp phải biệt kích, nên mới chọn cách vượt đồng vào ban ngày, tụi rằn ri rất ít đi ém quân nằm phục. Gần trưa, chúng tôi về tới vùng bờ bao Mỹ Hoà, nơi tiểu đoàn đang trụ lại chống càn, ròng rã gần một tháng trời nay, với tụi trung đoàn 10 sư 7. Đối phương bao vây bốn phía, xuyên thủng đội hình của chúng không phải dễ, lơ mơ là mất mạng như chơi. Thế nhưng tôi biết chắc rằng, mỗi khi chúng nả pháo, hoặc trút bom xuống trận địa, là lúc chúng tôi có thể luồn qua vòng vây của chúng rất dễ dàng, vì tụi lính sư 7 lúc này, chẳng quan tâm gì tới trận địa của chúng tôi. Và trưa hôm đó, khi tụi phản lực F4 nhào xuống ném bom, lợi dụng khói bụi mịt mù, hai chúng tôi đã trở về được đơn vị, giữa vòng vây của kẻ thù một cách trót lọt.
Bấy giờ tôi là trợ lý tác chiến của tiểu đoàn, kiêm luôn trợ lý quân lực, ở chung với anh Ruộng là trợ lý quân khí. Chúng tôi có một cái hầm chữ A để tránh bom pháo, đào theo kiểu chữ Z, và một cái chòi nhỏ bằng lau cù. Không hiểu tại làm sao, giữa bom đạn như mưa như bão, mà cái chòi nhỏ túm húm của chúng tôi, vẫn chẳng hề hấn gì. Khi tôi về tới nơi, anh Ruộng vẫn để dành cơm cho tôi, bởi anh nói rằng, anh biết thế nào tôi cũng sẽ về vào trưa nay. Trước đó, chúng tôi vẫn chỉ ăn cơm với cá khô, chủ yếu là khô cá mối, thứ khô cá biển, rất giống khô cá lóc. Thế nhưng trưa hôm đó, anh Ruộng để dành cho tôi cả một nắp soong quân dụng, đầy ắp thịt chiên, thơm phưng phức. Tôi hỏi thịt gì, anh Ruộng nói là thịt chim, cứ việc chấm muối ớt mà ăn. Tôi ăn gần hết đống thịt, mới hỏi anh Ruộng, chim ở đâu ra mà nhiều vậy, bấy giờ anh Ruộng mới cười mà nói, đánh nhau ì đùng, lấy đâu ra chim, thịt chuột đấy. Sống và lớn lên ở Miền Bắc với mẹ, tôi chưa bao giờ nghĩ là thịt chuột ăn được, bởi nó là con thú hạ đẳng nhất, đáng ghét nhất, dơ bẩn nhất, kinh tởm nhất, con thú truyền bệnh dịch hạch. Nhưng lỡ ăn rồi, lại thấy thịt chuột thơm ngon kì lạ, tôi chẳng việc gì phải trách anh Ruộng đã lừa tôi ăn thịt chuột. Dù gì thì thịt chuột vẫn là thịt, vẫn ngon hơn cá khô vạn lần. Trong nhật kí chiến trường của mình, tôi ghi rõ, lần đầu tiên tôi ăn thịt chuột là ở bờ bao Mỹ Hoà, thuộc huyện Kiến Phong, tỉnh Kiến Tường. Từ đó tôi bắt đầu ghiền thịt chuột, nên phải học anh Ruộng cách làm bẫy sập, cách gài bẫy sập, để có thịt chuột mà ăn.
Tụi trung đoàn 10 vây chúng tôi, bằng cả bộ binh, thiết giáp, pháo binh, cả trực thăng và phản lực F4, không phải nguồn lương thực, thực phẩm cung ứng của cấp trên, lúc nào cũng đến được tiểu đoàn. Nhiều khi, pháo bầy 105 ly và 155 ly, cùng bom tấn, thi nhau đào bới tanh bành trận địa, khiến chúng tôi lâm vào cảnh hai ba ngày không có hột gạo, phải nấu cả môn ngứa mà ăn. Thứ này ăn xong, suốt cả ngày bị ngứa mồm tới muốn móc họng quăng đi, nhưng không ăn thì đói không chịu nổi. Nay tôi với anh Ruộng, giữa chiến trận bời bời lửa khói, ngày nào cũng có thương binh liệt sĩ, tự nhiên lại có thịt chiên, thịt nướng, còn đòi hỏi gì nữa, sướng còn hơn cả Từ Thức lên tiên. Bởi vậy, dù đạn bom nguy hiểm thế nào, cứ sập chiều tối, là tôi với anh Ruộng lại thay nhau đi đặt bẫy sập, thứ bẫy làm rất đơn giản, bằng cách dùng các nhánh trâm bầu nhỏ, kết thành cái vỉ, to cỡ cuốn tập học trò, gắn cò bẫy làm bằng dây thép, đắp đất sét lên trên, rồi đem cài dọc theo bờ bao, vậy là có thịt. Thịt chuột. Thịt chuột đồng. Có điều bẫy sập, khi sập dính con chuột, sức nặng của đất sẽ làm chuột chết bẹp dép, có khi vỡ cả bụng, nên phải thường xuyên đi thăm, nếu không, chuột chết lâu sẽ bị hôi. Lúc bấy giờ hai anh em tôi có khoảng gần chục cái bẫy sập, mỗi cái bẫy sập xuống, chỉ dính một con. Mỗi đêm cài bẫy, chúng tôi đi thăm khoảng ba lần, mỗi lần bắt được chí ít cũng năm con, như vậy là trong ngày, chúng tôi đã có khoảng hơn ký thịt chuột đã mổ bụng, lột da, chặt bỏ đầu và bốn bàn chân. Tiêu chuẩn ăn cao hơn cả suất ăn tiểu táo của quân đội. Chiến tranh cứ chiến tranh, nhưng chúng tôi vẫn cứ béo ra phì phì; bởi lẽ, lỡ hôm nào không có gạo, thì thay bằng đi thăm ba lần trong đêm, chúng tôi tăng thêm thành năm lần, sáu lần. Nếu tính mỗi lần đi thăm, bắt được năm con chuột, mỗi đêm chúng tôi bắt được hàng chục con, ăn ngã nào cho hết. Ăn toàn thịt chuột đồng béo ngậy, chúng tôi không phát phì mới lạ. Mà hồi đó, con người chiến tranh với nhau, bắn giết nhau, chứ con người làm gì chiến tranh với chuột, thành ra giống chuột đồng mắn đẻ, cứ mặc sức sinh sôi từng đàn lúc nhúc, trở thành kho dự trữ thực phẩm tươi sống dồi dào cho lính. Cồn Cỏ có con “cá đua”, còn Tháp Mười có con “cá chuột”. Lính tráng thời đó, ai mà không ăn thịt chuột, để mà sống, để mà chiến tranh. Chuột đồng Tháp Mười, thành kho hậu cần cho quân ta thật sự.
2.
Những năm đầu, sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, tiểu đoàn tôi lên chốt giữ ở sông Trăng biên giới, tổ chính trị tiểu đoàn của chúng tôi, ở trọ trong ngôi nhà nhỏ bằng tre lá của cha con anh Hùng, tại Ba Gò, Hồng Ngự. Anh Hùng nguyên là du kích, bị đạn nhọn bắn gãy xương sống, khiến bán thân bất toại, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ nghe radio, hoặc vặn cassette, nghe tuồng Điệp và Lan, tướng cướp Bạch Hải đường, người tình trên chiến trận... Mọi việc làm ăn đều một tay cha anh làm tất tật. Tôi không nhớ ông già tên gì, chỉ nhớ ông thứ ba, gọi là ông Ba. Anh Hùng dềnh dàng, đô con bao nhiêu, thì ông Ba nhỏ thó, loắt choắt bấy nhiêu, nhưng dai sức như đĩa, cả ngày không lúc nào ngừng động tay động chân, hết làm ruộng, lại đi đặt lờ đặt lợp, đi thổi tu huýt bắt gà nước, gà đẫy(hai loài chim to như con cuốc cuốc, thịt ngon hơn cả thịt gà), và... đi đặt bẫy trập bắt chuột đồng. Hồi đó Miền Nam ít thấy ai sống bằng nghề buôn bán chuột, ngoài chợ thỉnh thoảng thấy có bán, cũng chỉ bán chuột cống nhum, to như con heo con. Bởi vậy ông Ba cũng chỉ sắm đâu chừng bốn năm chục cái bẫy trập, loại bẫy bằng lồng sắt, khi chuột vào ăn mồi thì sập cửa bắt sống. Với mấy chục cái bẫy trập ấy, lâu lâu ông Ba lại đem về nhà vài chục con chuột. Anh Hùng ngồi trên cái xe lăn tự làm lấy bằng gỗ, nấu nước vôi, nhúng từng con chuột vào, rồi tuốt sạch lông, mổ bụng, đem rửa thật sạch, sau đó dùng thớt ép cho chuột khô bớt nước, ướp ngũ vị hương, bột ngọt, sả, ớt... Vậy là có thịt chuột để chiên, để khìa, để nướng, để xào lăn. Cả tổ chính trị của tôi, với cha con anh Hùng, tha hồ mà nhậu tràn cung mây, nhậu tàn canh khói lửa, nhậu đến chìm xuồng tại bến.
Lúc bấy giờ, tổ chính trị tiểu đoàn(D1- E5(E207 cũ)- F8) có tôi, anh Trần Oanh, anh Phùng Gia Thặng, thì tôi là người hay theo ông Ba ra đồng, ra gò, ra bãi nhất. Đơn giản vì tôi là người hiếu động, thích theo ông ba đi giăng lưới, giăng câu, đặt lờ, đặt lợp, đặt bẫy trập, hay đi đào mà lươn, mà ếch, và đi xôm rắn. Hơn nữa tôi lại có khẩu cạc bin M2, với hàng mấy thùng đạn, trong đó vài trăm viên đã được tôi tháo đầu đạn, đổ bỏ bớt thuốc súng, tôi thích ra đồng để bắn chim. Nhờ theo ông Ba, mà tôi đã được mấy lần cùng ông, dậm cù bắt chuột. Cách bắt chuột đồng này rất đơn giản, nhưng cần phải có tấm lưới chụp thật lớn. Chúng tôi thường tìm những nơi đưng lác um tùm, sau đó mỗi người dùng một cây gậy dài, vừa hò hét, vừa khua loạn xạ vào đưng lác. Hai chúng tôi đi thành phòng tròn. Mới đầu là vòng lớn. Càng về sau càng xiết cho vòng nhỏ lại. Tất nhiên khi đi phải dẫm cho đưng lác ngã rạp xuống. Khi đám đưng lác còn lại, chỉ còn nhỏ vừa cho tấm lưới chụp lên, thì chúng tôi bủa lưới lên trên, bắt đầu cuộc vây bắt. Hồi đó chuột đồng nhiều lắm. Chúng lúc nhúc trong lưới hàng trăm con. Con nào con nấy béo núc na núc ních. Tha hồ mà bắt. Thích nhất là dậm cù bắt chuột vào mùa lúa. Vì lúc này, chuột từ khắp nơi, kéo về đồng lúa rất nhiều. Khi các cánh đồng lúa đã gặt, người dân hay chất rơm thành từng đống trong ruộng, chúng tôi thi nhau dậm lên các đống rơm, dồn cho chuột chạy vào nấp trong một đống rơm lớn nào đó, ở giữa vòng dậm cù, rồi bủa lưới lên mà bắt. Chuột đồng mùa lúa, béo núng nính, thịt thơm ngon hơn bất cứ mùa nào trong năm.
3.
Về chuột thì còn nhiều điều để nói lắm, bởi nó là con vật có tên trong mười hai con giáp, con vật tràn ngập khắp cả hành tinh, con vật được nuôi làm thí nghiệm, con vật được lên bàn tiệc của các nhà hàng, khách sạn, con vật đã thành ca dao, thành thơ, thành nhạc, con vật ngày nay đang bị săn bắt để buôn bán làm giàu. Trong đời tôi, tôi đã từng theo ông Ba đi đào hang bắt chuột cống nhum, đã từng đi đào hang chuột đụng nhằm rắn hổ đất, đã từng giết chuột, và bị chuột cắn cho toé cả máu bàn tay. Và dĩ nhiên, là công dân Nam Bộ, tôi cũng từng đánh chén, không biết bao nhiêu các món thịt chuột ở trên đời. Nhưng thôi, nói sao cho hết. Hôm nay xin tạm dừng ở đây. Lý con chuột một cái cho sướng đời cái đã.
- Út ơi! Lý con chuột, Út Hường ơi!
HTT
Lý Con Chuột
(ảnh sinh viên đại học Cửu Long)
MÀU LỬA ĐỐT ĐỒNG
Hồ Tĩnh Tâm
Lặn lội đồng xa về thăm bạn
Mùa đốt đồng lửa cháy suốt đêm thâu
Chẳng tô chén rườm rà chi lâu
Con ri cóc nướng lèo là xong tuốt.
Bạn vẫn như xưa, ngày dậm cù bắt chuột
Tối nhâm nhi câu vọng cổ ca chơi;
Và căn nhà, trống trếnh, gió trăm nơi
Tha hồ rủ nhau vô phá phách.
Thằng cu con tròn như trái quách
Lên bảy tồng ngồng chưa một chữ cắn đôi,
Bà vợ nhiệt tình như cái dấu chấm dôi
Kéo giai điệu bạn bè ra chút nữa.
Và hai đứa vẫn ngồi ngoài ngạch cửa
Rót cho nhau trời đất ắp đầy ly .
Uống cho say. Đời có là gì
Màu dân dã dân gian hơn tất cả;
Đồng đội cũ vẫn nằm trong mộ đá
Ta uống giùm tụi nó chén tình thâm;
Giàu có vốn lạnh lùng với khách ngự lâm
Đời lính chiến tới tận cùng máu thịt.
Uống! Cứ uống! Ông Lưu Linh dẫu biết
Cũng cười trừ mấy đứa hỏng này thôi.
Nhiêu khê làm gì. Cái thói khó chơi
Đọt tầm duộc vẫn còn chua lắm đấy;
Ngày xưa chúng mình đào đâu thấy
Một nhủi dế thuốc giồng kéo đỡ lạnh cơn mưa.
Thằng bạn lóng rày vẫn hệt như xưa
Cái chân gỗ chấm nạng vào mặt đất;
Những dấu chấm, chấm chấm hoài rất thật
Chấm vào tôi màu lửa đốt đồng.
H.T.T.
đi mua sắm thú vị thật- nhất là khi vào tiệm lựa đồ đám cưới