Tỷ giá
Thời tiết
|
VĂN HÓA NGƯỜI KHMER VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Đất nước ta trải dài từ Nam Quan cho đến Cà Mau, gồm nhiều dân tộc, hấp thu nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong lịch sử đã xảy ra nhiều cuộc di dân lớn do hoàn cảnh chiến tranh hoặc các biến động lịch sử. Điều đó đã tạo nên sự đa dạng phong phú về sắc tộc ở Việt Nhìn chung người Khmer cư trú ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thành những cụm rời, nhỏ là một ấp, lớn là vài xã xen kẽ với các xã ấp của người Việt và Hoa. Người Khmer cư trú trên các giồng, khai thác những vùng đất thấp phía trước và sau giồng, từng bước biến chúng thành đồng ruộng. Theo các nhà nghiên cứu, người Khmer ở ĐBSCL vốn gốc là tộc người Văh Năh (Phù Nam) mà từ cuối thế kỷ VI trở đi, đã bị tộc người Chenla (Campuchia hoặc Chân Lạp) thống trị và đồng hóa dần dần trong vòng 12 thế kỷ (từ thế kỷ VII – XVIII) và giờ đây đã trở thành một thành viên quan trọng trong cộng đồng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Về tôn giáo, người Khmer chịu ảnh hưởng sâu sắc Phật giáo Tiểu thừa được truyền vào từ Ấn Độ. Nhưng Phật Pháp mới chỉ giúp họ đạo lý sống làm người, còn trong cuộc sống lao động sản xuất thường ngày, dù muốn hay không họ vẫn phải va chạm với may rủi, được thua...thì Phật lại như xa vời. Vì thế họ vẫn còn tin vào các lực lượng siêu nhiên thần bí khác mà họ chưa có khả năng nhận thức và chế ngự. Nhất là trong nghề trồng lúa nước, phụ thuộc vào thiên nhiên, nhưng với trình độ nhận thức kỹ thuật canh tác thô sơ, thì việc được hay mất mùa vẫn còn rất bí ẩn, nên việc sùng bái, thần linh hóa các thế lực thiên nhiên thần bí chẳng phải vì lòng thành tín như đối với tôn giáo mà vì nhu cầu nhân sinh, vụ lợi...Vì một mặt chế ngự các thần đừng tác oai, tác quái, một mặt cầu xin ban phước lành. Vd : người ta cầu Têvôda ban mưa xuốn nhưng đừng làm bão. Cầu thần Sâurya (Mặt trời) hãy ban ánh sáng và hơi ấm cho nhân loại, nhưng đừng nắng như thiêu đốt khiến đồng ruộng khô hạn mất mùa...Cho nên trong xã hội người Khmer ĐBSCL, ngoài việc thờ Phật là chính, cũng còn tồn tại nhiều hình thức cúng kiếng khác. Hiện nay, người Khmer ĐBSCL vẫn còn bảo lưu nhiều hình thái cúng kiếng ngoài tôn giáo. Người ta gọi các hình thái tín ngưỡng ngoài tôn giáo này là các tín ngưỡng dân gian. Các tín ngưỡng dân gian này được thể hiện qua các nghi lễ, hội lễ của người Khmer. Về cơ bản có 5 lễ : các nghi lễ nông nghiệp, cúng Neak Ta, cúng Người Khmer cũng như các dân tộc ở vùng Đông Nam Á làm nghề lúa nước, nên trong xã hội cũng giữ gìn nhiều lễ nghi nông nghiệp. Trong lễ nghi nông nghiệp, chúng ta thấy không có đền đài, thành tượng lúc tế lễ, chỉ khi nào có lễ người ta mới lập bàn thờ. Cũng như người Việt, người nông dân Khmer ở ĐBSCL chia một năm ra làm hai mùa : mưa, nắng. Mùa mưa được tính từ khoảng giữa tháng 4 đến giữa tháng 10 âm lịch. Mùa nắng (khô) được tính từ giữa tháng 10 đến giữa tháng 4 âm lịch. Các nghi lễ nông nghiệp thường là : Ăn tết vào năm mới (Chol chnam thmây), lễ cầu an, lễ âk-âm-bok (Lễ cúng trăng). Khác với người Việt, người Hoa, người Khmer ăn tết Chol chnam thmây vào tháng “chet” tức đầu tháng 4 Dương lịch. Đây là thời gian đã hoàn thành việc gặt hái, mùa khô đã qua và mùa mưa sắp đến. Đáng chú ý là vào ngày giáp Tết, các núi cát (Phnom-Khsach) theo hình tháp (Sthâup) được đắp nên quanh chính điện, ở tám hướng và làm rào bằng tre bao quanh. Ở một số chùa còn thay núi cát bằng núi lúa (pun-phnom-srâuv). Trong những ngày Tết còn diễn ra nhiều trò chơi : ném banh (Chol-chhung), đấu khắm (Leăk-Kânsèng), rồng rắn (Chôk-chéay), hát đối đáp (Ayai) và biểu diễn văn nghệ. Ngoài ý nghĩa vui chơi giải trí, những trò chơi, các hình thức sinh hoạt nam nữ trong ngày đầu năm còn mang ý nghĩa phồn thực, cầu mong sự sinh sôi nảy nở gia tăng trong sản xuất. Thường sau lễ Chol chnam thmây và trước khi mùa mưa đến, người nông dân Khmer ĐBSCL còn tổ chức lễ cầu an (Bon kâmsan) cho phum sóc. Năm nào hạn hán kéo dài thì việc cúng lễ cầu mưa rất thịnh hành ở hầu khắp vùng người Khmer cư trú. Đương thời vào tháng Kdoek (tức 15/10 âm lịch) ở thời điểm trăng tròn, người Khmer tổ chức lễ cúng trăng (bon sâmpeah reah Khè) rất lớn. Người Khmer quan niệm rằng mặt trăng là vị thần có quan hệ tới kết quả tốt xấu của mùa màng nên trong lễ cúng trăng, vật cúng ngoài cốm dẹt là loại lúa nếp sớm thu hoạch, vào lúc ấy còn có dừa, bưởi, mía, chuối...Ở Sóc Trăng tỉnh Hậu Giang còn có hội đua ghe ngo vào ngày lễ cúng trăng. Ngoài các nghi lễ nông nghiệp đã nêu trên, người Khmer còn có các hình thức tín ngưỡng khác như tục cúng Neak Ta. Có thể có nhiều quan niệm khác nhau về tín ngưỡng Neak Ta, nhưng tựu trung đều thống nhất “Neak Ta là thần bảo hộ”. Neak Ta, người Việt ĐBSCL quen gọi là Ông Ta. “Neak” thực ra là tên chỉ con người nói chung, còn “Ta” là người đàn ông đứng tuổi. Neak Ta ở đây, là một ông thần bảo hộ được suy tôn qua giá trị thực tiễn của một vùng quy theo phạm vi ảnh hưởng. Trên đây là khái quát các hình thái tín ngưỡng của người Khmer. Ngoài tín ngưỡng, người Khmer còn chịu sự chi phối của tôn giáo trong đời sống. Nhìn vào lịch sử người Khmer, chúng ta biết được, trước khi đạo Phật Tiểu thừa du nhập, người Khmer đã có một thời kỳ theo đạo Bà-la-môn và Phật giáo Đại thừa. Tuy bây giờ không còn tồn tại nữa nhưng đạo Bà-la-môn vẫn còn lưu lại một số vết tích trong đời sống tinh thần của người Khmer. Cụ thể là thần của đạo Bà-la-môn vẫn còn được bảo lưu sùng kính trong xã hội người Khmer ĐBSCL, gồm ba vị chính : Prum : thần tạo ra thế gian Xiva : thần tàn phá thế gian (còn gọi là Eisâu) Visnu : thần cứu giúp thế gian (tiếng Khmer gọi là Neareay hoặc Hari). Cũng có khi người ta nhập ba vị thần này làm một gọi là Treimute, hoặc nhập hai thần Xiva và Visnu lại gọi là Harihara. Ảnh hưởng sâu rộng hơn trong đời sống xã hội, tinh thần của người Khmer chính là Phật giáo Tiểu thừa. Người Khmer từ lúc sinh ra đến khi trưởng thành, rồi về già đến lúc chết, mọi buồn vui đều diễn ra ở chùa. Thậm chí trong sách dạy làm người của Khmer có nói : người không được tu trong chùa là người có nhiều tội lỗi trong đời sống. Chỉ bằng vào một câu nói truyền miệng đã có sức mạnh quan trọng định hướng cho cuộc sống làm người của người Khmer. Người con trai được coi là đủ tư cách, phẩm chất trong xã hội đều phải trải qua một thời gian tu học ở chùa. Chính vì chịu ảnh hưởng quá nặng nề của tôn giáo, chủ yếu là Phật giáo, mà các Hội lễ của người Khmer đều nhuốm màu tôn giáo, kể cả các Hội lễ dân gian. Các Hội lễ thường được tổ chức tại chùa là chính với các lễ tiết hoàn toàn theo đạo Phật tiểu thừa, có sự tham gia của các sư sãi. Các Hội lễ mang một tính chất thiêng liêng trang trọng, và thường được tổ chức theo mùa. Ta có thể đơn cử một số lễ : Các hội lễ theo truyền thống dân gian : Lễ vào năm mới (Pithi chôl chnam thmây) Lễ cúng ông bà (Pithi sen Đôn-ta) Lễ cúng trăng hay lễ “đút cốm dẹt” Lễ đua ghe Các hội lễ theo Phật giáo : Lễ Phật đản Lễ nhập hạ Lễ đặt cơm vắt Lễ xuất hạ Lễ dâng y cà sa Lễ kết giới chính điện Lễ an vị tượng Phật Lễ ngàn núi Về phong tục tập quán của người Khmer ĐBSCL đến nay đã có nhiều thay đổi. Hồi xưa trong nhà của người Khmer chỉ có bàn thờ Phật, nhưng ngày nay đến những vùng người Khmer – người Việt – người Hoa ở xen kẽ thì nhiều gia đình người Khmer có bàn thờ tổ tiên, bàn thờ ông Địa, thậm chí có gia đình còn thờ cả Quan Công nữa...Nghệ thuật trang trí, chạm khắc ở chùa cũng mang nhiều nét văn hóa Việt – Hoa – Chàm...Chùa càng cổ thì mô típ Rắn (Pos) trang trí ở cột, bệ, thờ…gần với Rắn hơn, chùa nào mới xây cất hoặc mới trùng tu trang trí lại thì đa phần mô típ Rắn biến thành Rồng. Và y phục có mặc theo người Việt, người Hoa, nhưng chữ viết và phong tục “quan-hôn-tang-tế” thì vẫn giữ nét căn bản của truyền thống dân tộc. Người Khmer cư trú trên các giồng, khác với người Việt cư trú ở vùng thấp ven lộ và sông, rạch...Người Khmer cư trú thành các phum, sóc, quây quần chung quanh các ngôi chùa. Nhà cửa được xây cất rất đơn giản, ít nhà ngói, thường là nhà tranh tre nứa lá. Ngoài ra, trong phong tục của người Khmer những việc tang ma, cưới hỏi... đều có những quy định chặt chẽ riêng. Việc tu hành thường chỉ dành cho giới nam. Về văn học, nghệ thuật, âm nhạc, nghệ thuật tạo hình người Khmer đã đóng góp không nhỏ cho nền văn học nước ta. Về lĩnh vực văn học, từ lâu người Khmer đã sử dụng chữ viết để ghi chép những sự kiện lịch sử xã hội và văn hóa tôn giáo mà đến nay chứng tích còn tồn tại trên bia đá, trên lá buông (gọi là sa-tra), trên giấy xếp (gọi là Kơ răng) hoặc trên những tấm da thô. Theo cách phân loại thông thường, sa-tra gồm có 4 loại : Sa-tra rương : sa-tra truyện Sa-tra lô beng : sa-tra giải trí Sa-tra chơ-bắp : sa-tra luật giáo huấn Sa-tra tôs : sa-tra kinh kệ. Ta chỉ thử xét một loại đại diện là sa-tra rương. Những sa-tra rương hầu hết là những truyện dài. Phổ biến có các truyện Pơ-rặc Chin-na-vông, Pơ-rặc Lăc Sin-na-vông khơ-doang Sâng, Hông doanh (Thiên nga máy), Pơ-rặc Sô-mút...Điểm đặc biệt phổ biến của loại truyện này là đa số xoay quanh đề tài diệt chằng cứu người. Truyện thường được kể theo lối tự sự cổ tích. Trong mỗi chuyện, thường dùng năm thể thơ sau đây tùy theo tình huống của câu chuyện : Thể thơ Kakagati (dắc-ca-tế) : dùng để thuật chuyện hay dùng trong các đoạn đối thoại thông thường. Thể thơ Brahmagati (bram-ka-kít) : dùng để kể lể sự khổ sở, thương tiếc, hay buồn bã trong giây phút cô đơn, lạc loài. Thể thơ Bhujalilia (phu-chông li-lia) : dùng để diễn tả sự vui mừng, phấn khởi, miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên. Thể thơ Pùm-nôl dùng để thuật lại các cuộc đối thoại gay gắt, giận dữ, hay hăng hái trước khi giao chiến. Thể thơ Băn-tôl-kăc : dùng để diễn tả lối nói vòng vo, diễu cợt giữa hai người, và thường dùng miêu tả giây phút chuẩn bị trước lúc lên đường. Ngoài mảng văn học viết, người Khmer còn có một kho tàng văn học dân gian khá đồ sộ và phong phú. So với văn học viết, văn học dân gian truyền miệng đã chiếm vai trò quan trọng hơn trong đời sống văn học của người Khmer. Kho tàng văn học dân gian Khmer phong phú cả về thể loại lẫn đề tài. Về thể loại văn học dân gian có tục ngữ, dân ca và nhiều loại truyện dân gian khác nhau. Có thể kể một số loại như sau : Rương a-sti tiếp là những truyện thần thoại đích thực, Rương pơ-ri-đích (truyện ma quỷ hoang đường), Rương-tê-vok-tha (tiên thoại), Rương pa-pắc-căm (tôn giáo thoại), Rương Sấc-sa-na (truyện dã sử kể về tiểu sử các vị bồ tát của Phật Thích Ca)... Ngoài ra còn có truyện cười, được chia làm hai loại là Rương kòm-phleng tức truyện trào phúng và Rương rao-xà-bay tức truyện khôi hài. Do có một kho tàng văn học phong phú như vậy nên âm nhạc truyền thống của người Khmer ĐBSCL cũng không kém phần đa dạng, vì dân ca ( tôi gọi âm nhạc truyền thống của người Khmer như thế để dễ hình dung và gợi sự liên tưởng đến ca dao, dân ca của người Việt) thường lấy cảm hứng, chất liệu từ văn học dân gian. Âm nhạc của người Khmer có phần hát và phần giàn nhạc. Về hát thì gồm có : Hò (Bon tô bót), hát hành nghề, hát nghề nông, hát phong tục và lễ nghi, hát trữ tình và sinh hoạt, đọc tụng. Giàn nhạc của người Khmer có 2 loại : giàn nhạc dân gian và giàn nhạc lễ. Giàn nhạc dân gian gồm có các nhạc cụ : Trô sô lea (nhị giọng trung, hơpâm bằng gáo dừa), Trô sô (nhị trầm giống kiểu hồ của người Việt), Sôkô phlèng (trống cổ bồng bịt da trăn), Khưm (giống đàn nguyệt của người Việt), Krap (cặp phách bằng tre), Khlui (sáo trúc). Giàn nhạc lễ gồm : Runet êk, Runet thung (loại mộc cầm bằng gỗ cứng, giọng nam trầm), Kông thom và Kông tôết (cồng lớn và cồng nhỏ)v.v. Đáng kể nhất là sân khấu Rom-Rô-Bam, Dù kê và Dì kê. Rô-băm là hình thức sân khấu cổ nhất mà người Khmer ĐBSCL còn bảo lưu được. Hình thức sân khấu này lấy múa làm ngôn ngữ chính, nhưng kết cấu vở diễn không phải kết cấu của nghệ thuật kịch múa, mà là kết cấu của kịch hát truyền thống, theo lối kể chuyện, tự sự. Nhưng niềm tự hào của nghệ thuật sân khấu Khmer ĐBSCL chính là sân khấu Dù kê. Tóm lại văn hóa của người Khmer ở ĐBSCL đã đóng góp vào sự phong phú, đa dạng, độc đáo của văn hóa Việt Nam, đã trở thành một phần của văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên văn hóa Khmer vẫn còn những điều mà các nhà nghiên cứu chưa làm rõ được, như về lịch sử, nguồn gốc của người Khmer ở ĐBSCL...Thế nhưng chính sự bí ẩn chưa được làm rõ đó đã khiến cho văn hóa Khmer có nét hấp dẫn, độc đáo riêng, như một cô gái xuân thì mà ta mãi mãi không thể bước vào vùng đất linh thiêng là tâm tư nàng để tìm kiếm lời giải đáp cho những câu hỏi tại sao. Đất nước ta, trải qua một ngàn năm bị Bắc thuộc, chịu ảnh hưởng khá nhiều từ văn chương Trung Hoa nhưng với tinh thần yêu nước, tự chủ ông cha ta đã đấu tranh để không bị đồng hoá thành người Hán. Kể từ khi Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên) viết tác phẩm đầu tiên bằng chữ Nôm, loại chữ này đã nhập tịch làng văn bên cạnh chữ Hán. Chữ Nôm đánh dấu một bước phát triển về ý thức tự chủ, bảo vệ bản sắc dân tộc của ông cha ta; tuy dựa trên căn bản là chữ Hán, nhưng lại phát âm theo tiếng Việt ; đó cũng là truyền thống của dân tộc ta: vay mượn từ văn hoá của người khác để làm phong phú thêm văn hoá của mình nhưng không đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Kể từ khi có chữ Nôm, các nhà nho bắt đầu sáng tác bằng chữ Nôm, chữ viết của người Việt Những tác phẩm chữ Nôm tiêu biểu như : Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Hoa Tiên Truyện, Gia Huấn Ca, Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm diễn ca, Nhị thập tứ hiếu, Phạm Tải Ngọc Hoa… Những tác gia này tuy có ảnh hưởng từ văn chương Tàu nhưng những tác phẩm của họ vẫn đi sâu vào lòng người đọc và được truyền tụng mãi mãi. Vì sao vậy? Ta thử xét xem “Truyện Kiều”-tác phẩm bất hủ của dân tộc Việt Nam và của cả thế giới, là niềm tự hào của người Việt Nam-bắt nguồn từ đâu? Từ “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác giả Trung Hoa! Ngay cả tên người, địa danh, thời đại đều là ở Trung Quốc; thế nhưng tác phẩm vẫn đọng lại mãi mãi trong lòng người đọc. Phạm Quỳnh đã tuyên bố : “Truyện Kiều còn là tiếng ta còn, tiếng ta còn là nước ta còn”. Bao học giả đã nghiên cứu Truyện Kiều và đều công nhận rằng Truyện Kiều được viết bởi một phong cách rất Việt E thay những sự phi thường, Dễ dò rốn bể, khôn lường đáy sông (Truyện Kiều) Dò sông dò biển dễ dò Nào ai bẻ thước mà đo lòng người (Ca dao) Nàng rằng phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi (Truyện Kiều) Đi đâu cho thiếp theo cùng Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam (Ca dao) Tiên thề cùng một thảo chương, Tóc tơ một món, dao vàng chia hai (Truyện Kiều) Đôi ta đã nặng lời thề, Con dao lá trúc dựa kề tóc mai (Ca dao) Chuyện chi mà bắt em thề, Cầm dao lá liễu dựa kề tóc mai (Ca dao) Các thi gia khác như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Đình Chiểu, Lý Văn Phức…cũng đều đem những hương vị dân ca, ca dao của dân tộc vào tác phẩm của mình. Vì thế tác phẩm của họ sống mãi trong lòng nhân dân. “Chinh phụ ngâm diễn ca” tuy được Đoàn Thị Điểm dịch từ bản Hán văn của Đặng Trần Côn nhưng lời dịch uyển chuyển, vận dụng nhiều ca dao, tục ngữ khiến tác phẩm gần gũi hơn với tâm tình người Việt Nam. Ví dụ : Của là muôn sự của chung, Sinh không thác lại tay không có gì (Gia Huấn Ca) Ở đời muôn sự của chung, Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi (Ca dao) Tình kia nào phụ chi duyên, Gió dun mưa dủi cho nên nghĩa nào. (Hoa Tiên truyện) Tình kia có phụ chi duyên, Bến sông có phụ chi thuyền mà lo. (Ca dao, hát ví đò đưa) Các tác gia thường sử dụng thể song thất lục bát và lục bát khi sáng tác bằng chữ Nôm. Lục bát nghĩa đen là sáu tám. Phép đặt câu theo thể này cứ lần lượt một câu sáu chữ lại một câu tám chữ, muốn đặt dài bao nhiêu cũng được. Phép gieo vần thì cứ chữ cuối câu trên phải vần với chữ sáu câu dưới, bốn câu có ba vần thành ra một đoạn nhỏ. Am luật thì bắt đầu hai tiếng bằng, rồi lần lượt đến hai tiếng trắc, lại đến hai tiếng bằng….Trừ có chữ cuối câu tám đáng trắc lại đặt bằng để hiệp theo vần bằng. Còn chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm theo phép “nhất tam ngũ bất luận” không cần phải theo đúng luật. Chữ thứ sáu và thứ tám tuy đều là tiếng bằng, nhưng thanh phải khác nhau : nếu chữ sáu là đoản bình thanh (không đánh dấu) thì chữ tám phải là tràng bình thanh (đánh dấu huyền), hoặc trái lại thế. Ngoài ra, vần chân có thể thông vận (đọc trại đi) để gieo vần được với câu sáu. Ví dụ : “trường” thành “tràng”, “đường” thành “đàng”… Cỏ non xanh rợn chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Thanh minh trong tiết tháng ba, Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh. Gần xa nô nức yến anh, Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân…. (Truyện Kiều) Tưởng bây giờ là bao giờ? Song song đôi mặt, còn ngờ chiêm bao. Bấy lâu mưa khoá gió rào, Ngoài muôn nghìn dặm, biết bao nhiêu tình. “Biết đâu hương lửa ba sinh, “Còn trăng, còn gió,còn dành duyên ta… (Hoa Tiên) Nguyệt Nga dạ xót như bào, Đêm chong đèn hạnh, dầu hao than dài. Thất tình, trâm lược biếng cài, Bên màn buông xoã tóc dài ngồi lo. Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ, Bởi ngươi Diên Thọ hoạ đồ cho nên. Hạnh Nguyên xưa cũng hoà Phiên, Bởi ngươi Lưu Kỷ cựu hiềm còn ghi…. (Lục Vân Tiên) Thể song thất lục bát (hay lục bát gián thất) là cách đặt câu cứ hai câu bảy chữ rồi đến một câu sáu và một câu tám, cứ thế mà đặt dài mãi ra. Cách gieo vần thì chữ cuối câu bảy trên vần với chữ năm câu bảy dưới, rồi chữ cuối câu bảy dưới gieo vần với chữ cuối câu sáu, chữ cuối câu sáu lại vần với chữ sáu câu tám(theo như thể lục bát).Bốn câu có bốn vần, thành một đoạn nhỏ. Đặt sang đoạn sau thì chữ cuối câu tám ở đoạn trên lại bắt vần với chữ năm câu bảy ở dưới. Am luật hai câu bảy thì phải làm sao cho chữ cuối câu bảy trên là tiếng trắc mà chữ cuối câu bảy dưới là tiếng bằng. Đại loại thường câu bảy trên hai tiếng 2,3 đặt trắc trắc, rồi đến hai tiếng bằng để hạ xuống vần trắc; đến câu bảy dưới hai tiếng 2,3 lại đặt bằng bằng, rồi đến hai tiếng trắc để hạ xuống vần bằng. Ví dụ : Trải vách quế gió vàng hiu hắt Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng Oán chi nữa những khách tiêu phòng Mà đem phận bạc nằm trong má đào Duyên đã may cớ sao lại rủi, Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang Vì đâu nên nỗi dở dang. Nghĩ mình mình lại thêm thương nỗi mình….. (Cung oán ngâm khúc) …Ngoài đầu cầu nước trong như lọc, Đường bên cầu cỏ mọc còn non. Đưa chàng lòng dằng dặc buồn, Bộ khôn bằng ngựa, thuỷ khôn bằng thuyền. Nước có chảy mà phiền chẳng tả, Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây. Nhủ rồi, nhủ lại cầm tay, Bước đi một bước giây giây lại dừng… (Chinh phụ ngâm) Ngoài những thể thơ vừa kể trên, các tác gia còn sáng tác theo lối hát nói (hát ả đào hay còn gọi là ca trù). Lối hát nói là lối vừa để hát lên vừa phải hoà với bài đàn và nhịp phách, nên làm một bài hát phải đặt câu gieo vần sao cho âm điệu hợp với cung đàn khổ phách. Đại để cách đặt câu hát từ bốn chữ đến bảy chữ, chín chữ là vừa, bài hát thì mười một câu là đủ. Song cũng có khi câu đặt dài hơn, khúc khuỷu nhiều đoạn, gọi là câu gối hạc, bài đặt dài hơn mười một câu gọi là dôi khổ. Các câu trên đều đi đôi cả, duy câu cuối buông lẻ xuống sáu chữ cho hợp với nhịp phách. Cách gieo vần thì có hai loại vần: cước vận là vần ở cuối câu và yêu vận là vần lưng chừng câu. Lúc hạ vần thường đương vần bằng thay sang vần trắc, hoặc đương vần trắc thay sang vần bằng, sao cho âm điệu hợp với cung đàn khổ phách. Ví dụ: Ông phỗng đá Mưỡu Người đâu? Tên họ là gì? Khéo thay, chích chích chi chi nực cười! Dang tay ngửa mặt lên trời, Hay là nghĩ sự đời chi đây? Nói Trông phỗng đá lạ lùng muốn hỏi: Cớ làm sao len lỏi đến chi đây? Hay tưởng trông cây, cỏ, nước, non này? Chí cũng sắp chen chân vào hội Lạc? Thanh sơn tự tiếu đầu tương hạc, Thương hải thuỳ tri ngã diệc âu? Thôi cũng đừng chấp chuyện đâu đâu, Túi vũ trụ mặc đàn em sau gánh vác. Duyên kỳ ngộ là duyên tuổi tác : chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác, Cuộc tỉnh say , say tỉnh cùng nhau Nên chăng, đá cũng gật đầu! Nguyễn Khuyến Các sáng tác chữ Nôm ra đời khoảng thế kỷ 17, phát triển rực rỡ ở thế kỷ 18, 19 đã thể hiện tính mạnh dạn thoát ly khỏi sự gò bó của thể thức Đường luật Trung Hoa, cố gắng khoác một áo Việt Nam vào các hình ảnh, ý tưởng mượn của Trung Hoa; cố gắng này nói lên khả năng của ngôn ngữ Việt, tinh thần yêu nước của tác gia. Hơn nữa, các tác phẩm cũng phản ánh được phần nào tình hình xã hội của mỗi thời đại của mỗi tác phẩm. Những hình ảnh mới nhất về Album ảnh kỷ lục Việt Nam,được chụp vào sáng ngày khai mạc (22/7/2006)
![]() Trước giờ ra mắt ![]() Album ảnh phụ nữ kỷ lục Việt Nam ![]() Các vị đại ca ![]() Bé Vân dễ thương ![]() Giết người đoạt dê The free swallow
If you love me, come and sit by my side. If you love me, the stars will be dim tonight In the dark there’s only your eyes seeing me If you love me, please don’l make me cry. You’re a cowboy loving free life Free as a swallow swinging swiftly through the sky You can come to me, love me and leave me But I know that’s your life and I won’t blame you So if you love me, come to me tonight. We’ll give smiles together before saying goodbye. I don’t know when you will come back I don’t know where you will go to But I know the only one clearly : I love you and you do,too. Biết nhau từ độ thu vừa tàn Xa nhau ngay lúc thu vừa sang Bốn mùa cúc vội rụng qua tay Chiêm bao giấc tỉnh còn ngỡ ngàng Buồn hỡi đêm nào bằng đêm nay Cơn mưa hóa rượu ngấm hồn say Phi đạo hun hút, đường sao băng Từ đó em buồn, bóng tối đầy. Từ đó đâu còn nữa ngày vui Lá xanh lìa cành thân dập vùi Bốn mùa để tang một màu thu Từ đó em buồn, mây giăng mù. Từ đó em buồn nên từ đó Phố xưa vắng bóng đôi chim nhỏ Quán cũ còn đây người nơi mô Nên em vẫn hát bài nhạc cũ Đường đời ngăn đôi, tình chưa vơi Chưa vơi, nên từ đó em buồn Ghi chú : Bài thơ lấy cảm hứng từ bài hát “Nên từ đó em buồn” của Nhật Trường. Lời của bài hát: “Đường đời ngăn đôi nhưng tình đầu làm sao vơi. Nên từ đó em buồn” |
Thực đơn người xem
Bài viết cuối
Xem theo danh mục
Xem theo danh mục:
Tìm kiếm: Bình luận mới
(♥ Góc Thơ ♥)
Tik Tik Tak
Truyện cười
Music online
|
Mạng xã hội của người Việt Nam.
VnVista I-Shine © 2005 - VnVista.com |
![]() |