dienbich2881979

8 Trang < 1 2 3 4 > » 

Các bài viết vào Thursday 15th March 2007

 
Bệnh án của Ngọa Triều Hoàng Đế

BS Hồ Đắc Duy


. Có phải Lê Long Đĩnh là một vị vua của tàn ác và dâm đãûng ?
. Tại sao người ta gọi ông là Ngọa Triều Hoàng Đế ?
. Long Đĩnh có mắc bệnh tâm thần và bệnh trĩ ?
Đại Việt Sử Lược là bộ sách viết về sử xưa nhất của nước ta , được lưu giữ trong " Tứ Khố Toàn Thư " của triều Mãn Thanh Trung Quốc , nó có trước bộ Đại Viêt Sử Ký của Lê Văn Hưu , trang 107 chép về cái chết của Ngọa triều Hoàng Đế như sau :

" Mùa đông tháng 10 ngày Tân Hợi năm Mậu Thân (1008), vua qua đời tại phòng ngủ trong điện, Hiệu là Ngọa Triều , vì vua có bệnh trĩ phải nằm để thị triều "
Đại Việt Sử Ký Tòan Thư , Bản kỷ , Quyễn I , trang 235 chép :
Ngoạ Triều Hoàng Đế tên húy là Long Đĩnh , lại có tên là Chí Trung, con thứ năm của Đại Hành ở ngôi 4 năm , thọ 24 tuổi , băng ở tẩm điện. Vua làm việc càn dỡ giết vua cướp ngôi ,thích dâm đãng tàn bạo??"
Hay ở trang 236 viết "Vua tính hiếu sát , phàm người bị hành hình , hoặc sai lấy cỏ gianh quân vào ngừơi mà đốt, đề cho lửa cháy gần hết, hoặc sai kép hát ngừơi nước Tống là Liêu Thủ Tâm lấy dao ngắn dao cùn xèo từng mảnh, để cho không được chết chóng. Ngừơi ấy đau đớn kêu gào thì Thủ Tâm nói đùa rằng: "Nó không quen chịu chết" Vua cả cừơi . Đi đánh dẹp bắt đựơc tù binh thì đến bờ sông, khi nứơc triều rút, sai ngừơi làm lao dứơi nứoc , dồn cả vào trong ấy, đến khi nứớc triều lên, ngập nứơc mà chết; hoặc bắt trèo lên ngọn cây cao rồi chặt gốc cho cây đổ, ngừơi rơi xuống chết Vua thân đến xem , lấy làm vui .Có lầnVua đi đến sông Ninh, sông ấy nhiều rắn, vua sai trói người vào mạng thuyền,đi lại giữa giòng muốn cho rắn cắn chết. Phàm bò lợn muốn làm thịt thì tự tay vua cầm dao chọc tiết trước , rồi mới đưa vào nhà bếp sau . Có lần vua róc mía trên đầu sư Quách Ngang , giả vờ lỡ tay làm đầu sư chảy máu rồi cả cười. Hoặc nhân yến tiệc , giết mèo cho các vương ăn, ăn xong, lấy đầu mèo dâng lên cho xem, các vương đều sợ, vua lấy làm thích. Mỗi khi ra chầu, tất sai bọn khôi hài hầu hai bên; Vua có nói câu gì thì bọn ấy nhao nhao pha trò cười để cho loạn lời tâu việc của quan chấp chính. Lại lấy thạch sùng làm gỏi, bắt bọn khôi hài tranh nhau ăn ."
Chuyện tranh giành ngôi báu , anh em giết nhau để không phải là việc hiếm thấy , cũng như Đinh Liễn giết Hạng Lang năm 979 hay Nghi Dân giết Bang Cơ năm 1459.
Cái tội của Khai Minh Vương rõ ràng nhưng "Vua làm việc càn dỡ giết vua cướp ngôi , thích dâm đãng tàn bạo " liệu có thật như thế không hay là đây là chuyện dời sau thêm vào , ngay cái danh hiệu là Ngọa Triều cũng còn nghi ngờ. Có phải Long Đĩnh tự mình đặt cho mình cái thụy quái gở này hay là đơì sau gán cho ông ta.
Ngô sĩ Liên cho rằng " Ngoạ Triều không những thích giết ngừơi . mà còn oán vua cha.."

Chỉ có những người mắc bệnh tâm thần , với một đầu óc bệnh hoạn mới tưởng tượng ra các trò chơi giết người phong phú như đoạn văn trên mô tả những hành vi độc ác mất hết tính người

LONG ĐĨNH CÓ DẤU HIỆU BỆNH TÂM THẦN VÀ MẮC BỆNH TRĨ KHÔNG ?

Một bệnh án và chẩn đoán phân biệt được mô phỏng theo các tài liệu lịch sử đáng tin cậy có thể được biện luận như sau :

Về phương diện tâm thần xét hành vi của Long Đĩnh trong vai trò lảnh đạo đất nước hoàn toàn đối nghịch với một số hành vi tàn bạo hung ác như trích dẫn sau đây làm thí dụ như :

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục , Chính biên , quyễn 1 trang 274 chép: " Đinh Mùi (1007 ) Mùa xuân Long Đĩnh sai em là Minh Xưởng và Chưởng thư ký là Hoàng Thành Nhã đem con tê trắng sang biếu nhà Tống , dâng biểu xin cửu kinh và kinh sách Đại Tạng "

Đại Việt Sử Ký Tòan Thư trang 235 chép " Nhà vua đi Ái Châu , đến sông Vũ Lung . Tục truyền : người lội qua sông này phần nhiều bị hại , nhân thể vua sai ngươì bơi lội qua lại đến ba lần , không hề gì , xuống chiếu đóng thuyền để ở (các bến sông ) Vũ Lung , Bạt Cừ , Động Lung bốn chổ để chở người qua lại "

Trong Đại Việt Sử Lược trang 107 chép " Năm Định Vị ( Mùi) tức năm 1007 Vua sửa định lại quan chế văn võ theo nhà Tống"

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, trang 274 chép : " Vuaxin với nhà Tống cho ta sang "hồ thị" ở Ung Châu, mua bán đổi chác với người Tông , nhưng vua Tống không nghe , chỉ cho mua bán đổi chác ở Liêm Châu và Trấn Như Hồng thôi " ( Ung Châu thuộc Tỉnh Quảng Tây nằm sâu trong nội địa Trung Quốc )

Hoặc Trong Đại Việt Sử Ký Tiền Biên của Ngô Thì Sỉ , Bản kỷ , Quyển I , trang 39a chép: "Khai Minh Vương sai dân Ái Châu đào kênh , đắp đường từ cửa Vân Long qua Đỉnh Sơn đến sông Vũ Lũng.."

Long Đĩnh trong 4 năm cầm quyền cho đến trước khi chết , ông vua trẻ này đã 5 lần tự tay cầm quân đánh giặc.

Lần thứ nhất ( năm 1005) dẹp tan bạo loạn giữa các anh em thu phục mọi người ĐVSKTT trang 233 chép "?Từ đấy về sau các Vương và giặc cướp đều hàng phục ".

Lần thứ hai ( 1005 ) Khi quan quân đang đánh nhau với ngưới ở trại Phù Lan chợt thấy trạm báo tin là giặc Cử Long vào cướp đã đến cửa biễn Thần Đầu ( Ninh Bình ) Vua về đến sông Tham , đi sang Ái Châu để đánh giặc Cử Long.

Lần thứ ba ( 1008 ) Đánh người Man ở hai châu Đô Lương và Vị Long.

Lần thứ tư ( 1008) Đánh giặc ở Hoan châu và châu Thiên Liêu.

Lần thứ năm (1009) Tháng 7 vua đi đánh giặc ở các châu Hoan Đường và Thạch Hà.

Và đến tháng 10 năm năm Mậu Thân (1008), vua qua đời tại phòng ngủ trong điện.

Một cái chết mà Ngô Thì Sỉ đã nêu ra một nghi vấn , ông cho rằng Long Đĩnh bị thanh toán trong Đại Việt Sử Ký Tiền Biên, trang 185, ông viết như sau :"? Lý Thái tổ rất căm phẫm trước tội ác giết anh cướp ngôi của Khai minh Vương , nhân lúc Khai Minh Vương bệnh tật , sai người vào đầu độc giết đi rồi dấu kín việc đó , nên sử không được chép ?"

Qua những hành vi nêu trên thật khó tưởng tượng và xác định Long Đĩnh là một vị vua chuyên làm việc càn dở như sử ký đã ghi.

Long Đĩnh lại có thể là một người lai Chiêm Thành vì trong Đại Việt Sử Lược Quyễn I trang 21 chép và Đại Việt Sử Ký Tòan Thư trang 232 chú giải như sau : Mẹ của Lê Long Việt và Lê Long Đĩnh là Hầu Di Nữ( Con người hầu gái người Chiêm Thành ).

Như vậy cái chết của Ngọa Triều Hoàng Đế có thể vẫn còn là một bí ần mà nguyên nhân sâu xa hơn ngoài Tội Ác Giết Anh Cướp Ngôi , còn cái gì nữa hay không ? Có lẽ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Lý Công Uẩn ,Hửu Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Nguyễn Đê , Chi hậu Đào Cam Mộc vàKhuôn Việt Thái Sư, Vạn Hạnh Thiền sư và những Đại thần từng giúp cho Lê đại Hành là những người biết rõ điều này cho nên lời bàn của Ngô thì Si không phải là không có căn cứ ( Xem thêm ĐVSKTT trang 238 , hoặc tham khảo tài liệu qua Tòa soạn SK&Đ ).

Không biết Ngô Thì Sĩ khi nói nhân lúc Khai Minh Vương bệnh tật , sai người vào đầu độc giết đi là có ý gì ? bởi vì trước khi vua chết một hoặc hai tháng ông ta vẫn còn cầm quân đi đánh giặc ở các châu Hoan Đường và Thạch Hà.

Nhiều quyển sử ghi là vua bị bệnh Trĩ , đam mê tửu sắc thích dâm đãng tàn bạo , điều này quả thật có như vậy không ?

Bệnh trĩ là bệnh thế nào ?

Bệnh Trĩ là bệnh có liên quan đến cấu tạo củathành tỉnh mạch và huyết động học vùng chậu , các tỉnh mạch ở vùng hậu môn phồng lớn ra tạo thành bứu trĩ , nếu các bứu trĩ chiếm trên 180 độ thì được xếp vào loại 4 , nguyên nhân chưa rõ nhưng người ta ghi nhận những người bị viêm đại tràng mãn tính , táo bón , viêm gan , các nghề ngiệp mà phải đứng lâu ngồi lâu như ,thư ký tài xế..thì dễ bị bệnh trĩ hơn các người.

Theo quan niệm của đông y thì là do Khí hư hạ lãm là khí hư bị hãm , bị chận lại ở dưới không lưu thông được.

Người ta hay nói đau khổ vì bệnh trĩ , điều đó rất đúng , người nào có mắc phải bệnh này mới hiểu được nổi khổ của họ , nhất lại là bệnh nhân phải nằm để thị triều kiểu như người ta mô tả cho Lê Long Đĩnh với thụy hiệu Ngọa Triều.

Bệnh trĩ ở giai đoạn mà bệnh nhân phải nằm thì thường ở giai đoạn 4 , là giai đoạn nặng mà biện pháp điều trị là giải phẩu , mà giải phẩu hay tiêm thuốc để cho teo bứu trĩ thì 1000 năm trước làm gì có , nếu không được giải phẩu kịp thời thì bứu trĩ sẽ lan rộng ra , sưng tấy đau nhức , chảy máu , sa bít hậu môn làm bệnh nhân không dám đi cầu . Vì đau đớn và cấn ở hậu môn làm cho bệnh nhân phải nằm , không thể đi đứng , di chuyển , nhất là bệnh trĩ trong giai đoạn diễn tiến cấp tính

Khó mà tin Long Đĩnh là " ngọa triều " được vì trong suốt thời gian ngắn ngũi 4 năm ông cầm quyền ông ta đã tự mình làm tướng đi chinh phạt đến 5 lần và trận chiến cuối cùng mà Long Đĩnh tham dự trước khi ông chết là 2 tháng , đó là trận vua đem quân đi đánh châu Hoan Đường , Thạch Hà vào mùa thu tháng 7 năm Kỷ Dậu ( 1009 ) .Thử hỏi một " ngọa triều " làmsao mà đi đánh giặc được

Nếu Lê Long Đĩnh mắc bệnh trĩ mà phải nằm để thiết triều thì e rằng khó mà giải thích được những cuộc chinh chiến liên miên của ông ta

Để thực hiện được những cuộc chinh chiến liên miên , lâu dài và thành công như vậy chắc chắn vua phải có một sức khỏe thật tốtû cho nên nói là vua là kẻ ham mê tửu sắc , đau bệnh trỉ , lâm triều phải nằm là chuyện cần phải xét lại

Người gọi là đam mê tửu sắc thì suốt ngày chè chén say sưa , hoan lạc liên tục thì đầu óc trống rỗng , sức khỏe lụn bại làm gì có những quyết định sáng suốt cấp tiến như Cho nguờì sang Tống xin chín bộ sách vĩ đại nhất của Trung Quốc là Dịch , Thi , Thư , Lễ , Xuân thu , Hiếu kinh , Luận ngữ , Mạnh Tử , Chu lễ và kinh sách Đại Tạng , xuống chiếu đóng thuyền để ở các bến sông Vũ Lung , Bạt Cừ , Động Lung bốn chổ để chở người qua lại , sửa định lại quan chế văn võ theo nhà Tống , xin cho ta sang "hồ thị" ở Ung Châu, mua bán đổi chác với người Tông , sai dân Ái Châu đào kênh , đắp đường từ cửa Vân Long qua Đỉnh Sơn đến sông Vũ Lũng..v.v?vì có lần Ngô Thì Sỉ nói như thế này : " Xét việc Long Đĩnh cướp ngôi , cố nhiên không đáng được thụy hiệu đẹp , mà cái tên Ngọa Triều cũng không đúng. Có lẽ Lý Thái Tổ muốn dùng thụy hiệu xấu để gán cho , mà không biết rằng từ xưa những đế vương nào không đáng làm vua thì gọi là phế đế , mạt đế hoặc lấy cái tên khi bị phế mà chép. Còn như cái hiệu "Ngoạ Triều" thì thô bỉ không căn cứ ?." cho nên lý luận của Ngô thì Sĩ không phải là không có căn cứ về phương diện Y Khoa.

Rất khó mà giải thích được những tư tưởng cấp tiến về ngoại giao với Trung Quốc, kinh sách giáo dục vàcác cuộc chinh chiến tảo thanh nội loạn , giặc cướp thổ phỉ trong nước nếu cho rằng Lê Long Đĩnh là một vị vua chỉ làm việc càn dỡ, thích dâm đãng tàn bạo?và mắc bệnh trĩ được . cho nên nói là vua là kẻ ham mê tửu sắc , đau bệnh trỉ , lâm triều phải nằm là chuyện cần phải xét lại.




Các bài viết vào Tuesday 6th March 2007

 
I. SỰ XUẤT HIỆN CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI

1.Tác dụng của lao động trong quá trình biến hóa từ vượn đến người TOP


Căn cứ vào những thành tựu nghiên cứu của các ngành địa chất học, cổ sinh vật học và khảo cổ học, chúng ta biết rằng ở thời đại tối cổ, trên trái đất chưa có loài người. Sự xuất hiện loài người trên trái đất là, do sự tiến hóa của các giống động vật từ thấp lên cao. Bản thân loài người là một giống động vật cao cấp nhất. Chân lý ấy mãi đến thế kỷ XIX mới được nhà sinh vật học người Pháp Lamarck phát hiện ra.

Tiếp theo đó, ở Anh lại có nhà sinh vật học nổi tiếng Darwin ông khẳng định rằng: người là do một loài vượn cổ biến hóa thành. Tổ tiên của loài người là một loài vượn ngày xưa đã sớm tuyệt chủng. Tác phẩm naỳ lúc mới ra đời bị nhiều người công kích kịch liệt. Lamarck và Darwin đã vạch ra một cách đúng đắn nguồn gốc loài người vẫn chưa giải quýêt một cách thỏa đáng vấn đề vươn tiến lên người như thế nào? Bởi vậy phải đợi đến F.Ăng-ghen, chúng ta mới có được câu trả lới.

Ăng-ghen đã nêu cho chúng ta thấy động lực chân chính của sự biến hóa từ vượn đến người là lao động. Ông khẳng định: chính lao động đã sáng tạo ra bản thân con người.

2. Những bằng chứng khoa học về nguồn gốc của loài người TOP


Quá trình từ vượn tiến lên người phát sinh từ lúc nào? Ở nơi nào? Ðối với vấn đề này, các nhà nhân loại học và khảo cổ học chưa đi đến một kết luận thật dứt khoát, nhưng theo sự suy đoán chung thì như sau:

Ba,bốn triệu năm về trước, ở miền rừng nhiệt đới châu Á và châu Phi, đã từng sinh sống một loài vượn cổ gọi là driopithèque, tổ tiên chung của loài người và loài vượn. Việc phát hiện ra xương hóa thạch của vượn driopithèque đã chứng minh một cách hùng hồn giả thuyết khoa học của Ða-uyn về nguồn gốc loài người là từ một loài vượn cổ mà ra, bởi vì lần đầu tiên nó cho ta một khái niệm cụ thể về hình dáng thực của loài vượn cổ, tổ tiên của loài người. Nhưng việc có ý nghĩa khoa học lớn hơn và gây hứng thú nhiều hơn đối với vấn đề tìm hiểu nguồn gốc loài người là việc phát hiện ở Nam Phi di cốt của một loài vượn cổ, gần với người hơn bất cứ loài vượn hình ngườinào màkhoa học đã biết đến, gọi là vượn Phương Nam (Australopithèque). Ðặc điểm chủ yếu của loài vượn cổ này đã biết đi hai chân theo tư thế thẳng đứng hoặc gần thẳng đứng, và đã biết dùng hai tay làm những động tác cầm nắm, vì loài vượn cao cấp này đã chuyển từ cuộc sống leo trèo trên cây đến cuộc sống trên mặt đất, và đang trong quá trình tách khỏi giới động vật.

Các nhà khảo cổ học đã tiến hành khai quật, và tìm thấy ngày càng nhiều xương hóa thạch của nhiều giống loài vượn, tổ tiên trực tiếp của người hiện nay: người vượn Ja-va, người vượn Bắc-Kinh, người Heidelberg, người Néanderthal, người Cro-Magnon, người Sơn Ðỉnh Ðộng, v.v...

II. BẦY NGƯỜI NGUYÊN THỦY VÀ SỰ XUẤT HIỆN CHẾ ÐỘ THỊ TỘC
1.Bầy người nguyên thủy ở thời đại đồ đa cũ sơ kỳ TOP


Việc tìm được những di cốt hóa thạch của người Pithécanthropus cũng gọi là người vượn Ja-va phát triển cao hơn loài vượn Phương Nam là một thành tựu lớn của nền khoa học cuối thế kỷ XIX. Người vượn Ja-va, được coi là người nguyên thủy cổ nhất mà người ta được biết, là do một bác sĩ người Hà Lan tên là (E.Dubois) phát hiện, trên đảo Ja-va (Inđonesia) vào những năm 1891- 1893.

Giống người vượn trung gian kế tiếp người Pithécanthropus là người Sinanthropus cũng gọi là người vượn Trung Quốc hay người vượn Bắc Kinh do nhà khảo cổ học người Trung Quốc Bùi Văn Trung phát hiện từ năm 1921 ở vùng Chu-khẩu-điếm, phía tây nam Bắc Kinh.

Người Heiđelberg được phát hiện năm 1907 ở vùng Heiđelberg (Tây Ðức) cũng là một giống người vượn gần gũi với người Bắc Kinh và là một trong những giống người xưa nhất sống ở lục địa Châu Âu.

Ở thời kỳ bầy người nguyên thủy, công cụ lao động tiêu biểu là những hòn đá cuội được ghè đẽo qua loa, hình dáng rất thô kệch, những mảnh tước tách từ hạch đá, những chiếc rìu tay hình bầu dục hoặc hình hạnh nhân. Kỹ thuật chế tác công cụ rất thô sơ. Năng suất lao động rất thấp kém. Nạn đói thường xuyên đe dọa.

2. Sự xuất hiện người kiểu hiện đại và sự hình thành xã hội thị tộc mẫu hệ ở thời đại đồ đá cũ hậu kỳ TOP


Thời kỳ bầy người nguyên thuỷ tương đương với thời đại đồ đá cũ sơ kỳ, thời sinh sống của các giống người vượn Heiđelberg, Sinanthropus Néanđerthaal. Bước sang thời đại đồ đá cũ hậu kỳ thì có thể nói quá trình biến hóa từ vượn đến người đã kết thúc. Lúc bấy giờ đã xuất hiện người kiểu hiện đại-cũng gọi là người khôn ngoan hay người homo-sapien - hoàn tòan giống với người ở thời đại chúng tavề cấu tạo cơ thể củng như về hình dáng bên ngoài.

Thời kỳ xuất hiện người kiểu hiện đại cũng là thời kỳ bắt đầu hình thành các chủng tộc do những điều kiện thiên nhiên của cuộc sống của con người trong thời đại nguyên thuỷ và do sự cư trú phân tán của họ trên trái đất tạo nên.

Qua sự nghiên cưú của các nhà nhân loại học ,người ta phân biệt ba chủng tộc lớn:

Ðại chủng tộc Australo-Negoit hay đại chủng Xích đạo ,ví như những người da đen châu Phi ,những người thổ dân châu Ðại dương

Ðại chủng tộc Ơrôpêoit hay đại chủng Âu-Á , ví như các dân tộc ở châu Âu, Bắc phi, Tiền Á, Bắc Ấn...

Ðại chủng tộc Mongoloit hay đại chủng Á-Mỹ, ví như các dân tộc ở Trung Á, Bắc Á, Ðông Á và Nam Á,thổ dân châu Mỹ người In-đi-an.

Sau hậu ky thời đại đồ đá cũ, loài người đã tiến thêm một bước dài hơn. Những di tích khảo cổ học thuộc thời kỳ này chứng tỏ một trạng thái phát triển mạnh mẽ về mọi mặt: kỹ thuật sản xuất, sinh hoạt kinh tế, tổ chức xã hội và hình thái ý thức.

Lúc này do yêu cầu phát triển của sức sản xuất, bầy người nguyên thủy với mối quan hệ lỏng lẻo, không bền vững cuả nó được thay thế bằng tổ chức xã hội chặt chẽ hơn, ổn định hơn: tổ chức công xã thị tộc ra đời. Công xã thị tộc là một tập đoàn lớn hơn, đông hơn bầy người nguyên thủy, có thể gồm vài chục đến vài trăm người, sống thành từng gia đình, gồm lớp cha mẹ và con cái, anh chị em ruột thịt. Nhiều thị tộc có quan hệ dòng máu xa gần hợp thành một bộ lạc.

III. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ÐỘ THỊ TỘC MẪU HỆ Ở THỜI KỲ ÐỒ ÐÁ MỚI. TOP

1. Sự phát triển của công cụ lao động và sự xuất hiện nghề chăn nuôi và nghề nông nguyên thuỷ TOP


Sang thời đại đồ đá mới (khoảng 6000 năm trước công nguyên), con người hoàn toàn sống trong những điều kiện khí hậu, động vật và thực vật của thời hiện đại. Bên cạnh các công cụ đồ đá ghè đẽo của thời đại trước, công cụ lao động tiêu biểu cho thời đại này là với kỹ thuật mài nhẵn. Ngoài ra, kỹ thuật khoan lỗ và cưa cũng đã có . Thời đại đồ đá mới cũng được đánh dấu bằng sự xuất hiện hai ngành tiểu công nghệ đầu tiên của loài người là nghề làm đồ gốm nghề dệt vải. Bên cạnh các nghề săn bắn, đánh cá và hái lượm, người thời đại đồ đá mới bắt đầu biết và nông nghiệp dùng cuốc. Ðiều này càng củng cố thêm sự và nữ đã có từ thời đại đồ đá cũ . Săn bắn và chăn nuôi là công việc của người đàn ông. Người đàn bà lo việc hái lượm ,trồng trọt, chăm nom công việc gia đình, trong đó có việc làm đồ gốm và dệt vải .

2. Sự phát triển của chế độ công xã thị tộc mẫu hệ TOP


Chế độ mẫu quyền là một giai đoạn phát triển lịch sử mà tất cả các dân tộc trên thế giới đều đã kinh qua. Nó đã tồn tại trong một thời gian rất dài . (khoảng từ 6 .000 đến 4.000 năm trước công nguyên ) . Người ta thường phân chia chế độ mẫu quyền thành hai thời kỳ khác nhau: và. Chế độ mẫu quyền tảo kỳ tồn tại từ hậu kỳ thời đại đồ đá cũ đến sơ kỳ thời đại đồ đá mới ,dựa trên kinh tế và nguyên thủy . Chế độ mẫu quyền phát triển tồn tại ở trung kỳ thời đại đồ đá mới.Lúc này người ta đã biết chăn nuôi gia súc và đã tiến tới nông nghiệp dùng cuốc. Chính nông nghiệp đã xác lập địa vị và vai trò trọng yếu của người đàn bà trong nền sản xuất xã hội lúc bấy giờ.

3. Hinh thái ý thức của xã hội nguyên thủy TOP


Hình thái ý thức đầu tiên của loài người có thê ø nói là ngôn ngữ. Trên đây, chúng ta đã nói tư duy và ngôn ngữ sinh ra và phát triển gắn liền với việc tiến hành lao động tập thể

Tôn giáo cũng là một hình thái ý thức nảy sinh dưới chế độ công xã nguyên thủy, vào hậu kỳ thời đại đồ đá cũ. Lúc ấy, lao động sản xuất còn ở trình độ rất thấp kém. Con người cảm thấy mình bất lực trước thiên nhiên, sinh lòng mê tín thần linh, ma quỷ. Ðó chính là nguồn gốc và cơ sở của tôn giáo

Nghệ thuật cũng là một hình thái ý thức xã hội nảy sinh ở thời đại nguyên thủy, vào hậu kỳ thời đại đồ đá cũ. Nguồn gốc chung của nghệ thuật nguyên thủy là thực tiển lao động sản xuất của con người. Nó là hình thức biểu hiện nhận thức, tình cảm và tư tưởng của con người qua thực tiễn lao động, chứ không phải hoàn toàn về mục đích thẩm mỹ, vì nghệ thuật mà có sáng tác nghệ thuật. Nghệ thuật thời đó chỉ là do yêu cầu của đời sống thực tế mà có. Mục đích của nó là nhằm phục vụ sản xuất. Hội họa, điêu khắc, âm nhạc, ca hát, nhảy múa, trang sức, v.v...đều gắn chặt với sinh hoạt tập thể của mọi thành viên trong thị tộc.

IV. SỰ TAN RÃ CỦA XÃ HỘI NGUYÊN THỦY VÀ SỰ HÌNH THÀNH XÃ HỘI CÓ GIAI CẤP TOP

1. Sự xuất hiện đồ kim loại. Sự phát triển của nghề chăn nuôi và nông nghiệp, của thủ công nghiệp và thương nghiệp TOP


Trong suốt một thời gian rất dài, công cụ lao động của loài người chủ yếu là đồ đá. Công cụ đồ đá dù mỗi ngày một cải tiến, song cũng không đem lại năng suất lao động cao được. Về sau người ta phát hiện ra được kim loại. Công cụ làm bằng kim loại, lúc đầu là đồng nguyên chất, về sau là đồng thau, đem lại một năng suất không cao hơn hẳn so với công cụ đồ đá.

Công cụ đồ đá đồng xuất hiện vào khoảng đầu niên kỷ IV trước công nguyên. Nhưng nó không loại trừ công cụ đồ đá, mà ngược lại, công cụ đồ đá mới vẫn tiếp tục phát triển. Vì thế, người ta cũng gọi thời kỳ này là thời kỳ đá, đồng. Hầu hết các bộ lạc châu Á, châu Âu và Bắc Phi đều có trải qua thời kỳ đá, đồng.

Công cụ bằng sắt, xuất hiện và phát trển tương đối muộn, vào cuối thiên niên kỷ II, đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên. Sắt có ưu thế rất lớn so với đồng.Sắt rất sẵn, người ta tìm thấy sắt ở nhiều nơi, sắt lại rất cứng, nếu thời kỳ đồ đồng thau chưa hoàn toàn loại trừ đồ đá, thì thời kỳ đồ sắt đã hoàn toàn loại trừ đồ đá và tiến tới loại trừ cả đồ đồng trong lĩnh vực công cụ sản xuất

Từ cuối thời kỳ đồ đồng bước sang thời kỳ đồ sắt, đã diễn ra sự phân công xã hội lớn lần thứ hai giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp.

Việc trao đổi sản phẩm giữa các bộ lạc chăn nuôi, nông nghiệp và thủ công nghiệp đã trở nên thường xuyên và đều đặn. Nền sản xuất để trao đổi đã ra đời thì đồng thời thương nghiệp cũng xuất hiện, không những trong nội bộ thị tộc và bộ lạc mà cả với bên ngoài nữa.

Do sự phát triển của thủ công nghiệp và thương nghiệp, những thành thị cổ đại, trung tâm của bộ lạc hoặc của liên minh bộ lạc, nơi tập trung sản xuất thủ công nghiệp và thương nghiệp, bắt đầu xuất hiện và đối lập với nông dân.Bấy giờ loài người đã đứng trước ngưỡng cửa của thời đại văn minh, thời đại xã hội phân chia thành giai cấp và nhà nước ra đời.

2. Sự chuyển biến từ chế độ công xã thị tộc mẫu hệ sang chế độ công xã thi tộc phụ hệ TOP


Như trên đây đã nói, chế độ mẫu hệ chỉ tồn tại trên cơ sở một trình độ phát triển kinh tế và xã hội còn thấp kém. Sự phát triển cao hơn của nền sản xuất xã hội ở thời đại đồ kim loại đã đem lại những biến đổi mới trong xã hội và thay đổi địa vị của người phụ nữ.

Việc này xảy ra trước tiên ở các bộ lạc chăn nuôi. Việc chăn nuôi phát triển đã làm tăng thêm của cải cho gia đình và cho thị tộc, đời sống do đó được cải thiện nhiều hơn trước. Từ săn bắn sang chăn nuôi, công việc vẫn do đàn ông đảm nhiệm. So với kinh tế người đàn ông thì lúc này kinh tế của người đàn bà trở nên kém quan trọng. Người đàn ông bắt đầu có nhận thức về sự mâu thuẫn giữa địa vị thấp kém của mình với công lao ngày càng lớn của mình trong gia đình và thị tộc. Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, chỉ cần xóa bỏ huyết tộc theo họ mẹ và thừa kế mẹ,ü xác lập huyết tộc theo họ cha và quyền thừa kế cha. Chế độ mẫu quyền dần dần chuyển thành chế độ phụ quyền.

Chế độ hôn nhân đối mẫu đã chuyển sang chế độ gia đình một vợ một chồng. Quá trình hình thành gia đình một vợ một chồng lại gắn liền với quá trình phát sinh chế độ tư hữu, với quá trình phân hoá xã hội thành giai cấp.

3. Sự phát sinh chế độ nô lệ. Sự xuất hiện chế độ tư hưũ TOP


Như đã nói trên, dưới chế độ cộng sản nguyên thủy, không có sự bóc lột, sự thống trị, sự nô dịch giữa người này hay tập đoàn này đối với người khác hay tập đoàn khác trong xã hội. Sở dĩ như thế là vì của cải là thuộc sở hưũ tập thể của thị tộc, bộ lạc, không ai nảy ra tư tưởng bóc lột người khác.

Bước sang thời kỳ xuất hiện đồ kim loại, do điều kiện sản xuất đã tiến bộ hơn, năng suất lao động trong các ngành cao hơn, lao động của mỗi người không những có thể đảm bảo được những nhu cầu tối thiểu cho đời sống của bản thân và con cái, mà còn có thể sản xuất dội hơn một ít nữa, có thể làm ra được một số sản phẩm thặng dư. Do đó ma có thể nảy sinh hiện tượng người bóc lột người tức là sự chiếm đoạt sản phẩm thặng dư do người khác làm ra. Từ đó người ta bắt đầu nghĩ đến cách bóc lột sức lao động của những tù binh bị bắt trong chiến tranh, họ đã biến thành nô lệ của thị tộc. Như vậy là chế độ nô lệ đã xuất hiện. Ðó là hình thức áp bức bốc lột đầu tiên giữa người với người, đồng thời đó cũng là một bước tiến lớn của lịch sử, vì sự boúc lột lao động của nô lệ có tác dụng đẩy mạnh sự tích lũy của cải cần cho sự phát triển cao hơn của nền sản xuất xã hội.

4. Sự hình thành xã hội có giai cấp - Sự xuất hiện nhà nước TOP


Sự tích lũy của cải tư hữu ngày càng nhiều dưới hình thức ruộng tư, súc vật, hàng hóa hay tiền tệ làm cho sự chênh lệch về tài sản và về địa vị xã hội giữa các gia đình phụ hệ trong cùng một thị tộc hay giữa các thị tộc trong cùng một bộ lạc ngày càng rõ rệt. Dần dần xã hội thị tộc phân hóa thành lớp những người giàu và lớp những kẻ nghèo

Giai cấp xuất hiện thì mâu thuẫn giai cấp phát sinh và không ngừng phát triển ngày càng sâu sắc. Ðến một lúc nào đó, mâu thuận giai cấp không thể diều hòa được nữa thì giai cấp quý tộc giàu có đặt ra bộ máy nhà nước pháp làm công cụ thống trị để đàng áp sự phản kháng của nô lệ và dân nghèo.

Nhà nước xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử vào khoảng cuối thiên niên kỷ IV đầu thiên niên kỷ thứ III trước công nguyên. Ðó là những nhà nước cổ đại ở Ai Cập, ở Lưỡng Hà, ở Trung Quốc, ở Ấn Ðộ, v.v...

Nhìn chung mà nói, hình thái nhà nước xuất hiên đầu tiên là nhà nước chiếm hữu nô lệ, vì chế độ chiếm hữu nô lệ là hình thức bóc lột giai cấp đơn sơ nhất, thô bạo nhất. Trên cơ sở hình thái kinh tế - xã hội đó, loài người đã xây dựng một nền văn minh cổ đại rực rỡ.


Các bài viết vào Tuesday 6th February 2007

 
Đội quân đất nung của Tần Thuỷ Hoàng làm từ 2 nơi


Đội quân đất nung trong lăng mộ Tần Thuỷ Hoàng. Ảnh. ABConline.
Các chiến binh và ngựa trong lăng mộ của vị hoàng đế Trung Hoa nổi tiếng được làm từ những vùng khác nhau, cuộc phân tích phấn hoa trên các bức tượng đất sét đã tiết lộ điều đó.

Đội quân đất nung với 8099 chiến binh và ngựa được tìm thấy trong mộ vào năm 1974 đã làm các nhà khoa học sửng sốt. Chúng được làm ra với dụng ý bảo vệ cuộc sống cõi âm của vị hoàng đế, được chôn cùng với ông vào khoảng năm 210 đến 209 trước Công nguyên.

Giờ đây, ít nhất một bí ẩn về nguồn gốc của chúng đã được làm sáng tỏ.

Khi thực vật mọc ở thời điểm nhà Tần 2000 năm trước, các hạt phấn hoa bay trong không khí và rơi vào đất sét. Ya-Qin Hu, trưởng nhóm nghiên cứu ở Viện Thực vật học, Viện khoa học Trung Quốc và cộng sự đã ép các mảnh vụn từ đội quân đất nung, rửa và phân tách thành phần của nó. Chất hữu cơ tìm thấy được phân tích để tìm ra các loại phấn hoa.

Nhóm nghiên cứu phát hiện phấn hoa trên các chiến binh hầu hết có xuất xứ từ cây thân thảo, trong khi phấn hoa lấy từ những con ngựa đất chủ yếu bắt nguồn từ những cây thân gỗ như thông, bạch quả.

Sự khác nhau này chứng tỏ những con ngựa đất được chế tạo gần khu mộ, trong khi những chiến binh được làm từ một vùng đất khác ở xa hơn.


Các bài viết vào Sunday 28th January 2007

 
VĂN LANG VŨ BỘ

KIM ĐỊNH



IV. GIÁ TRỊ NHÂN CHỦ TRONG VÒNG CON GIÁP



Vòng con giáp là chi?



Thưa là vòng 60 năm mà nhiều nơi xưa đã dùng để ghi niên kỷ, nó căn cứ trên đường Hoàng Đạo của sao Mộc tinh (Jupiter) cứ 60 năm thì đi hết một vòng chung quanh mặt trời. Lối này đã xuất hiện rất sớm bên Sumer cách đây cả 5, 6 ngàn năm, nhưng rồi nó đã chết dần vì rất bất tiện: chỉ gồm 60 năm đang lúc lịch sử gồm nhiều ngàn năm. Bởivậy những nền văn hóa lớn đã tìm cách thay thế thí dụ Roma lấy năm lập thành Roma làm khởi điểm. Tuy vậy đó còn là khởi điểm tư riêng nên vẫn chưa ổn. Cho đến khi người ta nhận năm đấng Christ ra đời làm kỷ nguyên thì mới trở nên phổ cập và chôn táng hẳn vòng 60 năm, ngoại trừ bên Viễn Đông vì ít giao thông với Tây Au nên mới nhận công nguyên chừng hơn trăm năm nay. Thế là vòng 60 năm không còn liên hệ chi tới đời sống thường ngày mà chỉ còn là vấn đề cho các nhà khảo cổ.



Nhưng bên Viễn Đông thì ngoài việc khảo cổ, vòng con giáp còn có một liên hệ nào đó, nên tuy đã nhận công lịch hơn trăm năm nay rồi mà bây giờ vẫn cứ nhắc đến tên năm theo con giáp: hiện nay chúng ta đang sống năm Kỷ Mùi (79) và đang sửa soạn đón Tết năm Canh Thân (80), điều này tuy có thể giải nghĩa bằng liên hệ với bói toán, với những điều tin tưởng của tử vi, nhưng cũng chưa hẳn đủ, đằng sau còn ẩn tàng một cái gì đó. Hỏi đó là cái chi?



Đây là câu hỏi chưa được đặt ra mà lý do đơn sơ là chưa ai có thể trả lời, vì phải đi theo lối cơ cấu như Việt nho mới tìm ra một ít manh mối. Vậy điều khác biệt đầu tiên là nơi phát nguyên của hai vòng khác nhau: một do Mộc tinh, một do Kinh Dịch với hệ quả quan trọng là vòng Mộc tinh kh6ng có triết. Nó chỉ là một vòng suông, chung nhi phục thuỷ. Còn vòng con giáp thì không chỉ có ý là đầu giáp cuối, mà còn là giáp cả hai vòng một trật.



Hai vòng đó khác nhau: một vuông một tròn,



Vuông chỉ đất với 12 con vật địa chi là



Tí – chuột 7. Ngọ - ngựa



Sửu – trâu 8. Mùi - dê



Dần – hùm 9. Thân – khỉ



Mão – mèo 10. Dậu – gà



Thìn – rồng 11. Tuất – chó



Tị – rắn 12. Hợi – lợn



Tròn là trời với 10 thiên can là:



Giáp 6. Kỷ



At 7. Canh



Bính 8. Tân



Đinh 9. Nhâm



Mậu 10. Quý



Hình 2B: 12 CON VẬT ĐỊA CHI



Để định tính vòng trong với vòng ngoài, ta hãy dùng câu sách Kinh Dịch trong hệ từ rằng:



Tại thiên thành tượng



Tại địa thành hình



Tại địa đã hiện ra hình tích cụ thể như 12 con vật rõ ràng ai cũng thấy được. Còn tại thiên mới là cái tượng như một ý niệm tiên thiên chưa hiện ra hình tích cụ thể vì vậy tuy 10 thiên can có chỉ ngũ hành, nhưng mới là đợt tượng đợt trong, chưa có hình tích cụ thể nên không gọi tên được đành dùng những tên trừu tượng là: Giáp, At, Bính, Đinh v.v… Hai vòng hình và tượng đó giao nhau làm thành triết lý. Như vậy triết lý nọ nằm trong nét song trùng cơ bản tức tròn vuông.



Tròn vuông dù khác nhau đến ngược chiều mà vẫn đi đôi, lâu lâu lại giáp với nhau (vòng con giáp). Ai đã học triết lâu dài có thể nhận ra đó là điều quý vô biên. Triết học duy lý chính vì thiếu con giáp mà gây nên muôn tai họa cho con người, vì thiếu nó thì hết là lưỡng thê (hai đợt sống: một thuộc thân xác, một tâm linh) mà chỉ còn là Duy, thí dụ Duy vật vô thần. Heidegger gọi đó là việc duy lý đã đánh mất nét gấp đôi (the twofoldness, le pli en deux) vì thế văn hóa này đã gây nên đầy tang thương khổ não. Do vậy ta mới hiểu tại sao triết lý Việt nho đã cực kỳ nhấn mạnh đến nét gấp đôi nọ, và đem thiên can địa chi xếp thành cơ cấu như sau:



Hình 3: CON GIÁP GIAO THOA





Vòng đó đã nói lên sự “giao chỉ” của hai chiều tròn vuông, tuy khác nhau như vậy mà vẫn quấn lấy nhau cách khắng khít. Sự khắng khít này được biểu lộ không những ở đợt âm dương mà cả đến đợt ngũ hành theo cơ cấu 5-6 (nhân gấp đôi thành 10-12) ẩn trong những câu như:



Đêm 5 canh, ngày 6 khắc



Ngũ phúc, lục cực



Thành Hà Nội 5 cửa nàng ơi



Con song Lục đầu 6 khúc nước chảy xuôi một giòng…



Đấy là những câu hàm tàng nền triết lý song trùng của Việt tộc. Và đây là điểm khác biệt đầu tiên với vòng 60 năm của Mộc tinh, nhưng vì quá lớn lao nên khó nhận ra.



Sau đây là điểm tuy thuộc triết lý nhưng đã hiện hình vào vòng các con vật, nên dễ nhận hơn, tuy vậy muốn thấy được cách đích đáng, cần phải đối chiếu với bằng 12 con vật của Tây Au là:



Bạch dương 7. Kim ngưu



Song tử 8. Cự giải



Sư tử 9. Sử nữ



Thiên xứng 10. Thiên yết



Nhân mã 11. Mai yết



Bảo bình 12. Song ngư



Hình 4: HOÀNG ĐẠO





Đem hai bảng Đông Tây đối chiếu, ta sẽ nhận ra một điều nổi bật là bảng hoàng đạo thì xa lạ trừu tượng. Trừu tượng như Song nữ, Bảo bình, Thiên xứng; hoặc xa cách như Song ngư, Kim ngưu, Cự giải… Ngược lại bên Đông vừa cụ thể như rắn, hùm, chuột, hoặc gần gũi như mèo, chó, gà. Phải nói trong 12 con thì đến 8 con đã thuần hóa sống liền bên người; vật rừng chỉ có chuột, hùm, rắn, khỉ tức 1/3 tổng số. Trong hoàng đạo chỉ có dê (mai yết) là đã thuần hóa còn toàn thú rừng. Rõ ràng là tang chứng không có nền triết lý nằm ngầm vì không thấy ảnh hưởng nào vào vạn vật, vào môi sinh nên con người bị vật hóa tức không có địa vị đặc biệt cho mình. Tuy Song tử và Sử nữ là người nhưng cũng chỉ chiếm một cung như các con vật khác vậy thôi. Đó quả là hình ảnh triết học cổ điển đầy những vấn đề trừu tượng thí dụ vấn đề Hữu Thể (bàn về sự Có xét như là có) vấn đề sự Hữu của ý niệm. Sự phân biệt giữa tồn hữu (existence) và bản tính (essence) toàn những vấn đề hóc búa xa xôi khiến cho nhiều người học triết xong cảm thấy khô cạn cả tâm hồn.



Ngược lại triết Việt nho thì đầy ứ tình tứ và thiết thực vào tận thân tâm mà ta có thể thấy biểu thị trong những con vật địa chi. Con nào cũng phải phục vụ người hết mình kể cả những con thú rừng, trước là chúng được chọn ít không đủ đa số lấn át vật nhà, chỉ có 4 con đại diện cho 4 phương là chuột, hùm, rắn, khỉ. Hùm phụng sự người bằng cách ở cung của con người khi sinh ra, đó là Dần.



Thiên khai ư tí



Địa tịch ư sửu



Nhân sinh ư dần



Con người phải là Nhân chủ nên vật được chọn để đặt vào cung ngoại ô (1) con người phải là con vật mạnh nhất, đó là hùm (Dần). Cũng vì Dần ở cung người nên được gọi bằng ông, ông ba mươi. Chữ ba chỉ cung thứ ba. Con rắn thì phụng sự người bằng cách nào? Thưa bằng cách nhắc nhở hàng năm phải tĩnh tâm, tức rắn lâu lâu lột da nên chi con người phải cô lột bỏ lốt người cũ mặc lốt mới đặng ngày ngày đổi mới, canh tân đức tính “nhật tân chi vị thịnh đức”. Còn khỉ có tính thắc mắc hay đặt vấn đề nên chỉ óc thông minh, tìm kiếm, sáng tạo, vì vậy đựơc chọn. Các con thú nhà thì hỏi nói, con nào con nấy cũng phục vụ Người hết mình, khi sống đã vậy mà cả khi chết, thí dụ chó lục chết còn trối lại cho chủ một chầu mộc tồn. Chỉ còn có chột thì hơi khó nghĩ, đối với người thì hay làm hại, đã vậy sao lại được đặt vào cung Trời. “Thiên sinh ư Tí”, trời bao la cao cả lẽ ra phải tìm một con nào to nhất thí dụ con voi hay cá voi và lúc ấy thay vì nói Tí Sửu Dần thì phải nói Voi Sửu Dần mới đúng chứ tại sao lại đưa chuột vào cung của Thiên?



Thưa lý luận kiểu trên là lý luận theo cung cách duy vật sử quan lấy lượng làm nền. Ngược lại với “tâm linh sử quan” của Việt nho lấy phẩm làm trọng thì càng nhỏ càng hay, nhỏ cho đến vô hình thì mới là thần, là linh, là thiêng. Đó là lý do tại sao ở cung của Thiên lại đặt chuột là vật nhỏ nhất trong 12 con. Cũng vì lý do trọng phẩm đó mà cái đức con người được biểu tượng bằng con rồng vì rồng là vật vô hình theo nghĩa chẳng ai thực thấy. Các rồng ta thấy chỉ là hình vẽ, chứ rồng thực có ai thấy đâu, khi bay lên trời, lúc chui xuống đất để trật “long mạch” ra cho những ai thích phú quý chỗ mà chôn cha mẹ!



Vậy hình ảnh rồng là con giao long vật biểu của Lạc Việt phương Nam có cộng với con rắn là vật biểu của Việt tộc phương Bắc gọi là long xà. Vì là long nên có 4 chân, nhưng có thêm sự đóng góp của rắn nên mình con rồng dài ra. Rắn đóng góp có vậy, còn chính bản thân không dịch hóa nên phải ở lại nguyên hình rắn và cư ngụ tại vòng địa chi. Điều ấy có nghĩa cùng là Việt cả, nhưng Việt phía Nam tiến mạnh hơn phía Bắc trong nấc thang Nhân chủ. Cũng vì vậy mà cung Mão Tàu cho là thỏ, còn Việt cho là mèo. Mèo gần với người hơn vì vừa cùng họ dần (hổ) lại sống trong nhà với người, tính tình độc lập bất cần ai, lâu lâu đưa ra một cái lườm dài thượt khiến nhiều người không thích mèo. Đó là ngộ nhận, chứ mèo noi theo đức tự cường tự lực của hùm nên gần người hơn, còn thỏ rút rát, vì thế nói mèo thay thỏ là tỏ ra bảng Việt còn nhân chủ hơn cả bảng của Tàu. Nên ghi nhận là mèo cũng được tế như hùm, chứ thỏ thì không (Kinh Lễ, chương IX, tiếtII, câu 10). Tàu Việt khác nhau có điểm Mão, còn thì y như nhau gọi chung là bảng Việt nho.



Điểm then chốt làm cho bảng địa chi của Việt nho giàu tính chất Nhân chủ là hai chữ “Mậu Kỷ” đặt ở trung cung, đó là hình ảnh Nhân Hoàng ngự ở giữa để ra lệnh cho vạn vật chung quanh. Mậu có nghĩa là làm cho tốt tươi, làm cho phát triển, còn Kỷ là đại ngã tâm linh. Hai chữ Mậu Kỷ nói lên việc quan trọng hơn cả của con người là phải phát triển cái phần đại ngã tâm linh ngay nơi mình khiến cho mình ngày thêm tươi thắm: Nhật tân chi vị thịnh đức.



Chính vì con người “ngự giữa hai vòng” như vậy nên đã không vong thân mà còn gây được ảnh hưởng quyết liệt vào các con thú bên ngoài, nói lên rõ giá trị của con người linh thiêng hơn vạn vật (nhân linh ư vạn vật). Đấy chính là tinh thần của dân tộc “trọng nghĩa khinh tài” khác xa một trời một vực với dy vật sử quan y cứ trên “vật bản” (choisisme) đánh giá người theo mức độ cao thấp của sản xuất vật thể: sản xuất nhiều là người cao.



Tóm lại ngoài giá trị lịch sử thì vòng con giáp của Việt nho còn là một chứng tích hùng hồn về Nhân chủ tính. Thay vì bị mất hút trong đám sự vật, thú vật thì ở đây con người ngự giữa như một ông vua để thuần phục hết mọi loài vật. Đó là bí quyết sống lâu của vòng con giáp Việt nho. Nó sống lâu vì đầy giá trị nhân bản, nhân chủ. Xin nói thêm rằng lối tính tuổi theo con giáp chính là một phương tiện giáo khoa nhằm nhắn nhủ mỗi người rằng mình có mang trong tâm hồn chiều kích linh thiêng thuộc trời mà sứ mạng của mình là phải tài bồi phát triển cái phần thiên tính đó để mỗi ngày mỗi leo cao trên nấc thang Nhân chủ, đấng xứng danh là “Nhân linh ư vạn vật”.



TÁI BÚT



Bài này không giây vào vấn đề nguồn gốc là Tàu có nhận vòng con giáp hay chăng? Tuy nhiên không nghịch với ý kiến cho rằng Tàu có nhận của Sumer-Babylon như ông René Berthelot chủ trương đi nữa (La pensée de l’Asie et l’astrobiologie. Paris: 1972 p.105). Chính ông cũng nói chỉ nhận như sản phẩm văn minh vòng ngoài tức vòng 60, rồi sau Tàu thêm yếu tố văn hóa vào tức vòng trong “thiên can” thành ra vòng 60 trở nên một sản phẩm kép bởi (10*6) + (12*5) = 60 tức mang đậm ảnh hưởng ngũ hành để trở nên một lâu đài triết lý vĩ đại. Nhân tiện cũng có thể nói về các dữ kiện khác thuộc thiên văn, lịch sử là có thể mượn của Sumer Babylon nhưng đã được tẩm nhuận đầy triết lý.


Các bài viết vào Thursday 25th January 2007

 
Tôn giáo và chính-trị



Trần Văn Toàn



Của hoàng-đế, trả về hoàng-đế,

Của Thiên-Chúa, trả về Thiên-Chúa.

Thánh Kinh, Tân-Ước, Tin mừng theo

(Thánh Mát-thêu, đoạn 22, câu 21)



Nhà nước mà còn cần lấy tôn-giáo làm nền tảng, thì chưa phải là nhà nước chính hiệu, đích-thực [...]. Cái gọi là nhà nước Thiên-Chúa-giáo, thực ra là nhà nước chưa được hoàn-hảo, và vì thế cần phải có Thiên-Chúa-giáo, để cho tính-chất thiếu hoàn-hảo của nó được bổ-túc và được nên thần-thiêng [...]. Cái gọi là nhà nước dân-chủ, nhà nước đích-thực, thì không cần đến tôn-giáo để làm cho nó đầy-đủ về mặt chính-trị.

Karl Marx, Về vấn-đề Do-thái (Zur Judenfrage), 1843, MEGA (Karl Marx - Friedrich Engels Gesamtausgabe = Marx - Engels Toàn-tập), Berlin, 1982, Bộ I, Tập 2, tr. 151-152



Xin chú ý : Trước khi đi vào đề-tài, thiết-tưởng cũng nên nói ngay rằng những ý-kiến nêu ra trên đây về tôn-giáo và về Thiên-Chúa-giáo, đều áp-dụng được vào tất cả các ý-thức-hệ nói chung, và tất cả các tôn-giáo nói riêng, nhất là những ý-thức-hệ và tôn-giáo của nhà nước (quốc-giáo).



Hai đoạn văn trưng-dẫn trên đây, tuy cách nhau như thế là mười chín thế-kỷ, nhưng cùng đề xướng ra một nguyên-tắc làm tiêu-chuẩn cho tổ-chức xã-hội. Đó là nguyên-tắc phân-biệt tôn-giáo với chính-trị.



Nguyên-tắc này không phải tự-dưng mà có. Nó đã nảy-nở ra theo một quá-trình lịch-sử khá dài, dài tới hơn ba nghìn năm. Nói thế khác, không phải thời-đại nào, không phải xã-hội nào cũng tổ-chức theo nguyên-tắc ấy. Nghĩa là : đã có, đang có và chắc sẽ còn có những xã-hội không đặt vấn-đề biệt-lập tôn-giáo với chính-trị. Mà không đặt vấn-đề như thế, thì là vì người ta chưa ý-thức được cho rõ-rệt thế nào là tôn-giáo, thế nào là chính-trị. Nói cho cùng thì đó là vì cá-nhân còn chìm sâu vào chu-kỳ của thiên-nhiên, còn hòa-đồng với nếp sống của tập-thể, chưa ý-thức được vai trò chủ-động của mình trong trời đất, chưa nghiệm được cho sâu-đậm thế nào là ‘’nhân linh ư vạn vật’’.



Trong tình-trạng đó, tất cả những cái sở-đắc của tập-đoàn con người ta còn làm thành một khối văn-hóa duy-nhất mà người đi trước truyền lại cho người đi sau. Tôi xin tạm gọi khối văn-hóa duy-nhất ấy là tông-giáo, theo đúng gốc chữ Hán, nghĩa là những điều mà tổ-tiên, ông tổ, ông tông, dạy lại cho người ta. Những điều đó giúp cho người ta biết cách xoay-xở để sống trong trời đất, và sống êm đẹp trong những xã-hội khác nhau. Trong khối tông-giáo ấy, có những điều phải tin phải biết, có những cái phải kỵ phải kiêng, rồi còn có những công-việc phải làm đối với thiên-nhiên và sự-vật, những hành-vi phải có đối với người khác và thần-linh. Ai chưa có dịp tiếp-xúc với người ở ngoài tập-đoàn, thì chỉ biết có nếp sống như thế, coi như không thể nào khác đi được. Mình thấy có bổn-phận phải duy-trì tất cả những cái cha ông để lại. Ai làm khác đi thì coi như là đã bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ ông bà, nghĩa là bất hiếu. Đã thế, khi quan-niệm về thần-linh còn gắn liền với cái khối duy nhất đó, thì tất cả những điều phải làm, phải kiêng, phải lánh, đều được coi là mệnh-lệnh của thần-linh. Không giữ thì có lỗi.



Dần-dần, nhân vì có giao-lưu, trao đổi giữa các dân-tộc, người ta nhận ra rằng cái khối văn-hóa của mình chỉ là tương đối. Thế rồi, lấy lý-trí mà so-sánh, mà suy-luận, người ta phân-biệt ra đâu là những kiến-thức có chứng-lý, đâu là những định-kiến còn mơ-hồ ; đồng thời phân-biệt những động-tác kỹ-thuật có công-hiệu với những cử-chỉ có tính-cách ma-thuật, với những câu thần-chú vô hiệu-quả ; và sau cùng thì trong những việc phải làm, lại phân-biệt những việc có tính-cách vệ-sinh để gìn-giữ sức khỏe với những việc tu-thân, tề-gia, trị-quốc, bình thiên-hạ, kính thần-linh.



Chính trong trường-hợp đó mà các phương-hướng trong nếp sống của người ta càng được nhận-định rõ-ràng hơn và được biệt-lập thành ra nhiều phạm-vi, có nội-dung riêng, có lý-sự riêng và nền-tảng riêng, như : khoa-học, triết-lý, luân-lý-học, tôn-giáo, chính-trị, v.v.



Vì lẽ những phạm-vi đó phát-triển từ-từ, cho nên không thể nói một cách chung-chung về tôn-giáo hay về chính-trị, như là những thực-thể từ muôn thủa vẫn như thế. Một ví-dụ : Vì trong văn-hóa Á-châu không có sẵn từ-ngữ nào để phiên-dịch chữ religion của người Âu-châu, cho nên người Tàu (và người Nhật) đã dùng tiếng đôi zong-jiào (shukyo), đọc theo dọng Hán-Việt là tông-giáo hay là tôn-giáo. Nhưng theo đúng từ-nguyên thì tiếng đôi ấy chỉ nói lên cách-thức truyền-bá : cái do tổ-tông dạy lại cho ta, chứ không nói rõ là dạy cái gì, không nói rõ cái nội-dung của nó. Vì thế tự nó không có ý-nghĩa rõ-rệt đối với những người ở trong văn-hóa Tàu. Những cái mà ta gọi chung-chung là tôn giáo, chưa chắc đã có một nội-dung tối-thiểu như nhau, như : Phật-giáo, Đạo-giáo, Khổng-giáo, Thiên-Chúa-giáo, Bạch-liên-giáo, vật-bái-giáo, v.v. Chính vì ngôn-từ có công-dụng phân-loại, cho nên khi cùng dùng một từ-ngữ, người ta dễ lầm-tưởng rằng các thứ đó đều là một loại như nhau cả, rồi cho rằng tôn-giáo nọ có thể biến-thể thành tôn-giáo kia.



Nếu trên đây tôi tạm dùng chữ tông-giáo, theo đúng nghĩa chữ Hán, để chỉ cái khối văn-hóa nguyên-thủy, thì là vì hiện nay chúng ta đều đã quen dùng chữ tôn-giáo để dịch chữ religion của người Âu-châu. Nhưng nói cho cùng thì nhiều người Tây-phương cũng không có quan-niệm rõ-rệt lắm, cho nên hiện nay người ta còn tranh-luận xem có nên gọi mấy học-thuyết mới được chế ra là tôn-giáo hay không, có người còn cho rằng ma-thuật cũng là tôn- giáo nữa. Vì thế khi triết-học hay khoa-học bàn về tôn-giáo, thì cần phải xác-định mình coi bản-chất nó là như thế nào. Nếu không, sẽ có nhiều hiểu lầm tai hại, vì chưa chắc hai nhà nghiên-cứu cùng nói về một đối-vật như nhau.



Chúng ta cũng quen dùng chữ đạo là đường đi, cách ăn ở, để dịch chữ religion. Như thế có lẽ hay hơn, vì nói lên nội-dung của nó. Trong sách Phép giảng tám ngày (1651), giáo-sĩ Alexandre de Rhodes dùng chữ đạo để dịch chữ la-tinh lex, đúng nghĩa là luật phải giữ, con đường phải đi ; lại dịch chữ la-tinh secta là giáo.



Ý-thức được rằng cần phải phân-biệt tôn giáo với chính-trị, đó là một truyện, nhưng thực-hiện được hay không, được nhiều hay ít, đó lại là truyện khác, vì nó còn tùy-thuộc vào điều-kiện lịch-sử và văn-hóa của các dân tộc, có lúc lên lúc xuống. Khó thực hiện nữa là vì tính ù-lỳ không muốn thay đổi, nhưng cũng còn là vì có người thấy rằng không phân-biệt thì mình có lợi thế hơn. Tôi không có ý tìm một cách tỉ-mỉ xem nguyên-tắc đó được thực-hiện trong lịch-sử như thế nào, vì nó thuộc về sở-trường của các sử-gia.



Hiện nay, nói chung thì những quốc-gia thực-hiện được kha-khá nguyên-tắc phân-biệt tôn-giáo với chính-trị, thì đều nằm trong khu-vực văn hóa Âu-châu. Vì sao thế ? Theo thiển-ý thì có hai yếu-tố đã làm cho họ đặt ra lý-tưởng : một là văn-hóa Hi-lạp và Rô-ma, hai là quan-niệm nhất-thần của Do-thái-giáo và Thiên-Chúa-giáo. Theo giả-thuyết đó tôi xin trình bầy sau đây mấy chặng đường quyết-định trong việc hình-thành nguyên-tắc phân-biệt tôn giáo với chính-trị



Yếu-tố duy-lý trong văn-hóa Hi-lạp



Quan-niệm đòi-hỏi biệt-lập tôn-giáo với chính-trị đã nảy-nở ra trong hoàn-cảnh lịch-sử và văn-hóa đặc-biệt của người Hi-lạp thời thượng cổ.



Đã từ lâu các sử-gia thường nói về sự bộc-phát vào thời đó của tư-tưởng Hi-lạp trong phạm-vi duy-lý của triết-học và khoa-học, coi đó như là một hiện-tượng cực lạ. Lại có những người không đồng-ý, cho rằng không có gì lạ cả, vì người Hi-lạp đã học lại được nhiều kiến-thức của người miền cực-tây châu Á, nhất là miền Lưỡng-hà-địa, lại còn học của người Ai-cập nữa. Gần đây lại có thêm một ít học-giả người Phi-châu tuyên-bố rằng người Ai-cập còn chịu ảng-hưởng của người da đen Phi-châu nữa, cho nên Phi-châu mới thực là nguồn gốc của văn-hóa Hi-lạp. Nhưng cho dù có tìm ra được chứng cớ, thì thiết-tưởng cái đó cũng không thành vấn-đề. Thực thế, ai lại không biết rằng người ta thâu lượm và chồng-chất kinh-nghiệm và kiến-thức qua bao nhiêu thế-hệ, bao nhiêu thế kỷ. Thâu lượm được ít hay nhiều là tùy vào khả-năng của từng dân-tộc, vào sự giao-lưu giữa các dân-tộc. Nhưng có chồng chất bao nhiêu đi nữa, mà thiếu phương-pháp để phân-biệt và tổng-hợp cho có thứ-tự mạch-lạc, thì chỉ thêm lộn-xộn, chứ không sao thành-lập được khoa-học và lối suy-tư hợp lý. Đó mới là điểm đặc-biệt làm cho văn-hóa Hi-lạp đáng chú-ý.



Trong cuốn sách Nguồn gốc tư-tưởng Hi-lạp (1962), học-giả người Pháp Jean-Pierre Vernant có viết trong phần kết-luận : ‘’Trong văn hóa Hi-lạp, cái Lý thực ra đã được thiết-lập, hình-thành và được trình-bầy ra trước tiên là ở bình-diện chính-trị. Kinh-nghiệm về đời sống xã-hội đã được người Hi-lạp đặt làm đề-tài để tích-cực suy-luận, vì trong đời sống của tổ-chức thị-xã (polis), kinh-nghiệm ấy đã được đặt làm đề-tài để công-chúng thảo-luận. Tư-tưởng huyền-thoại bắt đầu xuống dốc khi mà các nhà hiền-triết bắt đầu bàn-luận về trật-tự trong xã-hội, tìm cách xác-định xem nó là gì, và diễn-tả nó bằng những công-thức mà ai có trí khôn đều hiểu được cả, đồng thời áp-dụng vào đó phép đo-lường lấy số-lượng làm tiêu-chuẩn. Từ đó mới xác-định ra một đường-lối tư-tưởng chính-trị biệt-lập ra bên ngoài tôn-giáo’’ . Sau đó mới bắt đầu suy-luận về vũ-trụ, và thành-lập triết-học và khoa-học.



Thời-điểm quyết-định của bước tiến đó là vào khoảng thế-kỷ XII trước Tây-lịch kỷ-nguyên, khi mà ở đất Hi-lạp thế-lực và văn-hóa Mykênai (Mycènes) bị chi-tộc Đoria (Doriens) từ miền Tây-bắc tràn xuống làm sụp-đổ.



Trước thời đó thì trong vòng ba thế-kỷ, quyền-lực trong xã-hội đều tập-trung trong tay nhà vua. Một mình nhà vua nắm trong tay cả binh-lực lẫn kinh-tế, lại giữ độc-quyền về việc tôn-giáo. Những người làm việc cho nhà vua chưa phải là công-dân hay công-chức như trong một xã-hội tự-do bình-đẳng, nhưng chỉ là tay sai, gọi dạ bảo vâng mà thôi. Trong chế-độ quân-chủ tuyệt-đối như thế, cung-điện nhà vua là trung-tâm của đời sống xã-hội. Sau khi chế-độ ấy sụp đổ thì lớp quí-tộc đứng ra tổ-chức xã-hội và phân-tán quyền-lực ra làm ba chức-vụ chuyên-môn : có người chuyên-môn việc tế-tự trong tôn-giáo, có người chuyên nghiệp đánh giặc nơi chiến-trường, và sau cùng thì có người chuyên-môn cầy ruộng ngoài đồng. Từ đây trung tâm đời sống xã-hội không còn phải là cung-điện nhà vua, nơi truyền lệnh cho bá tánh, nhưng là công-trường (agora), nơi các công-dân hội họp, bàn-bạc và quyết-định. Chế-độ dân-chủ của thị-xã được thành-lập.



Người Hi-lạp gọi thị-xã của họ là polis, gọi những hoạt-động có liên-can đến việc tổ-chức thị-xã là politikê, nay ta phiên-dịch là chính-trị. Còn chế-độ dân-chủ của thị-xã thì gọi là politeia. Vào thời đó, người La-tinh ở Roma cũng có chế-độ tương-tự, trong đó xã-hội được coi là của chung, còn công việc tổ-chức xã-hội thì gọi là việc chung (res publica). Mấy từ-ngữ đó được truyền sang các ngôn-ngữ Âu-châu. Vì thế ngày nay họ gọi những người có nhiệm-vụ giữ trật-tự trong xã-hội là police, tức là công-an hay là cảnh-sát. Còn chế-độ cộng-hòa thì người Hi-lạp vẫn còn gọi nó là politeia, các dân-tộc Âu-châu khác thì gọi là république, republik, v .v.



Từ nay việc tổ-chức xã-hội không còn căn-cứ vào lệnh truyền của thần-linh, vào sức mạnh của người giữ binh-quyền, hay là vào sức ép của những người có nhiều tài-sản, nhưng nhất-thiết đều tùy vào sự đồng-ý của người trong xã-hội, được diễn-tả ra bằng lời nói, sau khi đã dùng lời nói để tranh-luận. Như thế là chế-độ thị-xã đã biệt-lập tôn-giáo với chính-trị và thành ra môi-trường sinh-hoạt của những con người tự-do bình-đẳng, biết dùng lời nói và lý-sự làm phương-tiện độc-nhất để thuyết-phục nhau .



Theo như học-giả Vernant thì có ba đặc-điểm trong văn-hóa thị-xã của Hi-lạp. Một là dành phần ưu-tiên cho lời nói lý-sự. Lời nói không còn phải là lời thần dậy thánh phán, không phải là lời thần-chú để làm ra các phép thần-thông, không phải là lời ra lệnh từ trên xuống dưới, nhưng là lời trao đổi bàn cãi trên bình-diện lý-sự, để phân-biệt cái đúng với cáí sai. Hai là đời sống chính-trị có tính cách công-cộng, không có gì ám-muội phải che đậy, mọi người có thể tham-gia vào được cả. Vì tôn-giáo đã tách rời ra khỏi chính-trị, cho nên có thể có nhiều hội-đoàn tôn-giáo mà không cái nào bị chính-trị chi-phối. Ba là người trong xã-hội, theo một quan-điểm nào đó, phải giống nhau , tham-gia như nhau vào việc chung.



Chính trong môi-trường văn-hóa như thế mà các triết-gia như Platon, Aristoteles, đã soạn ra những luận-thuyết về phép tổ-chức nhà nước, về chính-trị, chỉ căn cứ vào lý-trí, chứ không tựa vào quan-niệm tôn-giáo nào cả.



Cũng cần phải nói lên rằng chế-độ dân-chủ ấy, ở Hi-lạp cũng như ở Roma, chỉ thịnh-hành được hơn thế-kỷ, cho đến khi có những chính-khách như Caesar, như A-lịch-sơn (Alexandre) đại-đế, phế bỏ những thị-xã nhỏ bé, và thành-lập đế-quốc rộng lớn, bao trùm nhiều dân-tộc có văn-hóa và ngôn-ngữ khác nhau. Lúc đó nhà cầm quyền lại muốn trở về quan-niệm ngày xưa, lẫn-lộn tôn-giáo với chính-trị, thậm chí có những đại-đế Roma bắt buộc thần-dân suy-tôn mình là thần-linh nữa. Cho nên dự-định biệt-lập tôn-giáo với chính-trị phải chờ khi có điều-kiện thuận-tiện, ở thời cận-đại, mới lại phát-triển được.



Ảnh-hưởng của đạo Do-thái và đạo Thiên-Chúa



Chủ-trương biệt-lập tôn-giáo với chính-trị ở Âu-châu còn do một nguồn-gốc thứ hai, mà ít ai ngờ tới, đó là đạo Do-thái và đạo Giê-su . Tôi xin giải-thích như sau.



Theo thường tình thì khi gặp một hiện-tượng, một sự-vật hay một nhân-vật khác thường, có tác-động hữu-hiệu một cách lạ-lùng, thì người ta đều cho là thiêng, là linh, là thần-linh cả. Những người quá-cố cũng lại linh lại thiêng nữa. Cho nên quan-niệm rằng vũ-trụ này đầy-dẫy những thần-linh vô vàn vô số. Ngoài những vị đó, người ta còn cúng bái vị thần của riêng bộ-lạc mình. Người Do-thái trong buổi đầu chỉ thờ một thần của bộ-lạc mình là Gia-vê, nhưng dần-dần nhận ra rằng chỉ có một vị thần duy-nhất chung cho tất cả loài người. Vị thần ấy là tuyệt-đối vô song, khác hẳn các sự-vật và nhân-vật trong vũ-trụ. Đó là vị Thiên địa chân Chúa, vị Chúa thật trời đất.



Quan-niệm đó có ba hiệu-quả : một là không có sự-vật nào trong trời đất (như mặt trời, mặt trăng, tinh-tú, loài vật, cây-cối, v.v.) được coi là thần-thiêng ; hai là không có nhân-vật nào đưọc coi là thần-linh ; ba là cái sinh-lực phồn-thực trong vũ-trụ này cũng không phải là thần-thiêng nữa. Nghĩa là ngoài Thiên-Chúa ra, thì không ai, không cái gì được thờ-phụng cả.



Xét riêng về bình-diện chính-trị thì trong xã-hội Do-thái không có vua chúa nào được coi là thần-linh hay là thiên-tử cả. Quyền-bính của nhà vua từ nay không còn cái nền tảng thần-thiêng, rồi cá-nhân của nhà vua cũng không có gì là thần-thánh. Đặc biệt nhất là khi đọc thánh-kinh của người Do-thái, ta không thấy có câu nào suy-tôn nhà vua như là một vị thần, hay là thuộc dòng-dõi thần-linh. Mà ngược lại, ví dụ như trong các sách nói về lịch-sử các vua (như hai quyển Sách Sa-mu-en và hai quyển Sách các vua), ta thấy các vua cũng có đủ các tật xấu như ai, cũng gian-dối, cũng độc-ác, cũng ngoại-tình lung tung, có vua là con ngoại tình nữa, nghĩa là chẳng có gì là thần-thánh cả. Các vua được như thế là vì Đức Chúa cho như thế, và các vua cũng không được tự-tiện muốn là gì thì làm, vì có luật phải giữ.



Lập-trường đòi biệt-lập tôn-giáo với chính-trị của người Do-thái sinh ra hai hiện-tượng đáng chú-ý. Một là : trong lịch-sử dân-tộc Do-thái từ ba nghìn năm nay, quốc-gia chỉ độc-lập chừng độ hai, ba thế-kỷ, còn ngoài ra thì lệ-thuộc vào các đế-quốc chung quanh, như A-xy-ri, Ba-by-lon, Ba-tư, Hi-lạp, Ro-ma, và đế-quốc Hồi-giáo của ngườì Thổ-nhĩ-kỳ ; thế mà vẫn duy-trì được tôn-giáo của mình. Hai là : Chính vì không coi vua chúa và các người cầm quyền là thần-linh tuyệt-đối, cho nên vào thời cận-đại có nhiều người Do-thái tham gia tranh-đấu cho phong trào dân-chủ xã-hội, và Karl Marx là một trường-hợp điển-hình.



Lập-trường đó đã được Đức Giê-su, giáo-tổ xuất-thân từ đạo Do-thái, tiếp-tục giảng-dậy, như trong câu trưng-dẫn ở đầu bài này. Môn-đồ của ngài trong mấy thế-kỷ đầu kỷ-nguyên và từ sáu, bẩy thế-kỷ nay, đều sống trong những chế-độ chính-trị khác nhau, mà không cho rằng tôn-giáo của mình bó buộc phải hòa-đồng với một chế-độ nào. Ngay cả trong mươi thế-kỷ thời trung-cổ, tuy rằng tôn-giáo thường đi đôi và nhiều khi đồng-nhất với chính-trị, nhất là khi phải đoàn-kết chống ngoại xâm, nhưng trên nguyên-tắc vẫn phân-biệt được hai phạm-vi đó. Thế mới biết là việc thi-hành nguyên-tắc đó không phải là dễ.



Khuynh-hướng lẫn-lộn thần-quyền với thế-quyền



Khi đạo Giê-su được giảng ra ngoài đất Do-thái, thì nguyên-tắc biệt-lập tôn giáo với chính-trị của người Hi-lạp đã bị bỏ rơi trong đế-quốc Hi-lạp và đế-quốc Rô-ma. Cho đến nỗi, như đẵ nói trên đây, có hoàng-đế Rô-ma bắt thần-dân suy-tôn mình là thần-linh. Cũng như người Do-thái đương-thời, môn-đồ của Đức Giê-su làm thần-dân của hoàng-đế, nhưng không bao giờ chịu thờ các vị đó như là thần-linh. Chính vì thế mà đã có những cuộc bách-hại đẫm máu.



Đàng khác, tôn-giáo cổ-truyền của Hi-lạp và Rô-ma thời đó cũng đã từ lâu bị các nhà tư-tưởng duy-lý phê-bình, cho nên không còn bao nhiêu ảnh-hưởng, nhất nữa là vì người ta không còn là công-dân chung nhau lo việc nước, nhưng chỉ còn là thần-dân của hoàng đế, thay vì lo việc công, thì để tâm lo việc tư, lo cho số-phận riêng của mình. Các tôn-giáo có tính-cách giải-thoát cá-nhân từ miền Cực-tây châu Á tràn sang, trong đó có đạo Do-thái và đạo Giê-su Ki-tô, lại được người ta theo. Dĩ nhiên là môn đồ của Đức Giê-su không nghĩ đến việc pha trộn tôn-giáo với chính-trị, vì vấn-đề nguyên-tắc và cũng vì họ là thiểu-số.



Nhưng tình-thế biến-đổi sau khi, vào thế-kỷ IV, hoàng-đế Constantin theo đạo Giê-su và cho được hưởng tự-do tôn-giáo, và nhất là sau khi hoàng-đế Theodose tuyên-bố đạo Giê-su Ki-tô là quốc-giáo, và cho nhiều đặc-ân, làm cho người có đạo bám chặt vào chính-quyền. Như thế tôn-giáo được dùng như một yếu-tố văn-hóa thống-nhất đế-quốc và để biện-chính cho chính-quyền. Sau đó đế-quốc bị chia làm hai, theo ngôn-ngữ hai miền, miền Đông nói tiếng Hi-lạp và miền Tây nói tiêng La-tinh. Giáo-hội miền đông gọi là giáo-hội chính-thống, tuy có phân-biệt thần-quyền với thế-quyền, nhưng trong thực-tế thì tùy thuộc vào nhà cầm quyền, bất kể là chế-độ nào, như hoàng-đế Hi-lạp, hoàng-đế Thổ-nhĩ-kỳ, hoàng-đế Nga hay là chính-quyền Liên-Xô sau này. Cũng vì thói quen như thế mà ngày nay người cộng-sản theo ảnh-hưởng văn-hóa Nga, đều nghĩ rằng nhà nước đứng trên tôn-giáo là lẽ đương-nhiên. Thế nhưng ở miền Tây-Âu, Giáo-hội quen gọi là Công-giáo thì lại có một lịch-sử khác và một mối liên-quan khác đối với chính-quyền.



Thực thế, ở miền Tây-Âu, đế-quốc Rô-ma bị người man-di Nhật-nhĩ-man (German) xâm-lấn và chiếm đóng, nhà nước bị tan rã, những đầu-mục kém văn-hóa, nhiều khi không biết chữ, đứng ra cai-trị. Họ cần đến giáo-sĩ và các tu-sĩ công-giáo, là những người biết chữ, biết văn-hóa la-tinh, gíúp đỡ họ trong việc cai-trị, dậy cho họ tiếng la-tinh để thâu nhận lấy văn-hóa cổ-điển. Vì thế mà giáo-hội Rô-ma la-tinh rất có uy-tín, vì vừa là mẹ dậy cho biết đạo, vừa là thầy giáo-hóa cho các dân-tộc ở Tây-Âu. Theo nguyên-tắc thì thần-quyền được biệt-lập ra ngoài thế-quyền, nhưng không sao tránh đụng-chạm, vì bên nào cũng muốn thắng thế và lợi-dụng bên kia. Vào quãng thế-kỷ XI trở đi thì giáo-quyền thắng thế. Và vì thế có nhiều lạm-dụng do tinh-thần thế-tục tràn vào hàng giáo-sĩ. Có nhiều cuộc canh-tân nhưng không thành. Mãi tới đầu thế-kỷ XVI, cuộc canh-tân tôn-giáo do Luther đề-xướng mới thành-công, và tông-phái Tin-lành ly-khai ra khỏi giáo-hội Công-giáo Rô-ma. Cuộc tranh-chấp giữa đôi bên trở thành chiến-tranh tôn-giáo, khá lâu nhưng bất phân thắng phụ. Dần-dần đi đến chỗ thỏa-hiệp, ngừng chiến. Nhưng đó cũng là thời-kỳ thành-lập các quốc-gia Âu-châu, như Pháp, Anh, Đức : các vua vừa muốn phế bỏ đòi hòi của giáo-quyền, lại vừa muốn giáo-quyền công-nhận quyền-bính của mình là thần thiêng.



Hiệu-quả của cuộc chiến-tranh tôn-giáo là làm cho các triết-gia suy-nghĩ nhiều về chính-trị, để tìm ra một chế-độ nào có thể làm cho người ta sống chung được với nhau, mà không sát-hại nhau vì lý do khác tôn giáo. Từ đây người ta có ý-kiến rằng chính-trị là việc chung, việc công, còn tôn-giáo là việc riêng, việc tư. Như thế tức là trở lại những suy-tư về nhà nước, mà không xét gì đến tôn-giáo, như ngườì Hi-lạp trước đó 18 thế-kỷ đã làm (Platon, Aristoteles). Nhà tư-tưởng Hòa-lan Hugo Grotius (1583-1645) chủ trương rằng phải suy-tư về nhà nước, như thể là không có Thiên-Chúa vậy (etsi Deus non daretur). Tiếp theo đó, các triết-gia quan-tâm đến chính-trị như Thomas Hobbes (1588-1679), John Locke (1632-1704), Jean-Jacques Rousseau (1712-1778), v.v. đều kiến-tạo nên những lý-thuyết về nhà nước, chỉ căn-cứ vào nhu-cầu và đòi-hỏi của con người, vào hợp-đồng xã-hội, chứ không còn tựa vào những nguyên-tắc tôn-giáo nữa. Hiệu-quả của những lý-thuyết đó là Cách-mạng Pháp (1789), lật đổ chế-độ cũ, vừa là quân-chủ độc-đoán, vừa tựa vào đạo Thiên-Chúa. Cho nên câu trưng-dẫn của Karl Marx ở đầu bài này là lời phê-bình chính-sách nước Phổ (Preussen/Prusse), lúc đó vẫn còn là chế-độ cũ, như trước Cánh-mạng Pháp.



Vấn-đề hôm nay



Ngày nay trên thế-giới, hai thế-kỷ sau Cách-mạng Pháp, vẫn còn nhiều quốc-gia chưa thực-hiện dân-chủ bình-đẳng, thậm chí còn nhiều nước độc-tôn một tôn-giáo làm quốc-giáo, và nếu không cấm-cách thì cũng kỳ-thị những tôn-giáo khác và những người vô-tôn-giáo. Thiết-tưởng nếu không vì lợi, thì cũng là vì họ không có điều-kiện văn-hóa và lịch-sử thuận-lợi của xã-hội Âu-châu, như đã nói trên đây, để ý-thức được rằng cần phải biệt-lập tôn giáo với chính-trị. Cho nên dù có nghe nói, cũng không hiểu ra sao cả. Đó là một yếu-tố còn lâu-dài đe-dọa hòa-bình thế-giới.



Có điều cần phải chú-ý là : trong thời cận-đại, chủ-trương biệt-lập tôn-giáo với chính- trị đã được đề-xướng lên trong xã-hội Thiên-Chúa-giáo Âu-châu, do những người theo đạo ấy. Dĩ nhiên là khi chủ-trương ấy được áp-dụng do những người đã bỏ hay là chống tôn-giáo, thì nó sẽ theo một con đường khác.



Có thể nói là ngày nay phần nhiều các nước Âu-châu thực-hiện dân-chủ và biết biệt-lập tôn-giáo với chính-tri một cách khá thỏa-mãn, cho nên duy-trì được hòa-bình. Tuy vậy thỉnh-thoảng vẫn còn có lúc trục-trặc, nhất là ở nước Pháp. Cũng dễ hiểu. Đó là vì trong xã-hội có nhiều thành-phần, tuy rằng cùng đồng-ý chủ-trương biệt-lập tôn-giáo với chính-trị, nhưng lại không hiểu vấn-đề theo một lối như nhau. Thực vậy, có một số người vô-tôn-giáo cho rằng cần phải cấm chỉ các tôn-giáo, vì đó chỉ là mê-tín ; có một số khác chủ-trương tự-do tư-tưởng, cho nên đồng-ý phải có tự-do tôn-giáo, cũng như phải có tự-do vô-tôn-giáo ; có người cho rằng tôn-giáo là vấn-đề cá-nhân cho nên phải để tự-nhiên không cho tuyên-truyền tôn-giáo ; có người khác cho rằng tuy tôn-giáo là do cá-nhân tự-do định đoạt, nhưng nếu không nghe nói đến, thì tự-nhiên chẳng ai có tôn-giáo nào cả, cũng như chẳng ai có văn-hóa nào cả. Lại có một số người không muốn biệt-lập tôn giáo với chính-trị, nhưng họ không có ý-kiến gì rõ-rệt về việc tổ-chức nhà nước sao cho những người khác tôn-giáo, hay là không tôn-giáo, có thể chung sống hòa-bình và liên-đới với nhau.



Không giải-quyết vấn-đề cho ổn-thỏa, thì xã-hội sinh ra lộn-xộn : kẻ này hăm-he thánh-chiến để bảo-vệ tôn-giáo, kẻ khác hễ thấy người ta động đến mình vì lẽ này lẽ khác thi cứ lớn tiếng tuyên-bố là có cấm đạo, có pháp-nạn, rồi hô-hào liên-đới quốc-tế, v.v. Giải-quyết vấn-đề thế nào cho phải, cái đó còn tùy vào trình độ ý-thức của người trong nước, và nhất là vào thái-độ thực-tiễn, khôn-ngoan và công-bình của người có trách-nhiệm trong nước.




8 Trang < 1 2 3 4 > »  
Thông tin cá nhân

thanhhuyen13051979
Họ tên: TRẦN CÔNG ĐIỀN BÍCH
Nghề nghiệp: giáo viên
Sinh nhật: 28 Tháng 8 - 1979
Nơi ở: Huế
Yahoo: thanhhuyen13051979  
Trạng thái: User is offline (Vắng mặt)
Thêm vào nhóm bạn bè
Gửi tin nhắn
các bạn ơi hãy vao xem đi. và hãy giúp mình hoàn thiện nha

Bạn bè
/-/u]/[9hung]/[u/-/
/-/u]/[9hung]/[u/-/
 
Xem tất cả

CHBTNSB
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31




(♥ Góc Thơ ♥)

Tik Tik Tak

Truyện cười

Xem theo danh mục
Xem theo danh mục:
     


Tìm kiếm:
     

Thời tiết

Tỷ giá

Giá Vàng

Lượt xem thứ:





Mạng xã hội của người Việt Nam.
VnVista I-Shine © 2005 - 2025   VnVista.com