hồ tĩnh tâm

   Trong: Truyện Tĩnh Tâm
 

CHUYỆN ĐỜI THƯỜNG Ở QUÊ
Truyện ngắn của Hồ Tĩnh Tâm

 
 
Khi ngọn gió ngây tình trên đồng đất
Mưa âu sầu tưới xuống buồn mênh mông
Con cò ưu tư lặn lội bờ sông
Trái bần rụng vô tình bến vắng
Vạt đất sau hè mọc đầy rau đắng
Quê ơi, nhức một vần thơ
 
                                           H.T.T.
 
Từ nhỏ tới lớn, tôi chỉ sống ở quê. Quê tôi nghèo lắm! Từ nhà này qua nhà khác phải đi bằng xuồng ba lá. Cơm nước hàng ngày, hết thảy đều dựa vào con cá, lá rau ngoài đồng. Trẻ con bốn năm tuổi còn cởi truồng nhồng nhổng. Đàn ông, những ngày giỗ chạp , cúng kiếng mới dám bận bộ bà ba trắng, đi đôi guốc mộc gọt từ gỗ cây dong. Đàn bà thường vận bà ba đen, đi đâu có việc thì vắt thêm trên vai chiếc khăn rằn. Con trai, ra đường, vắt vẻo điếu thuốc Vàm Cỏ, kể là sang. Con gái, sắm được chiếc quần đen Mỹ Á, mừng muốn hết lớn.
Người như vậy, cảnh làng cũng vậy. Nhà cửa cất rời rạc, lúp xúp lụp xụp bằng tre lá; tới đâu cũng thấy nâu xậm, nâu bạc màu lá dừa nước. Chuồng trâu, chuồng heo dựng kế nhà. Mùi phân, mùi nước đái khai nồng, muỗi mòng bay rối mắt. Ruồi lằng thì vô kể. Húp miếng nước canh bù ngót nấu hến, húp luôn một vài con ruồi là chuyện thường. Ngoài đồng, đỉa lội lền khên, nhất là đỉa trâu, đỉa mén. Chỉ cần thọc chân xuống nước, không biết chúng ở đâu nhào ra, lội liểng điểng, đặc  ngừ như bánh canh. Trong làng toàn cây tạp. Dọc các bờ kinh, cây tra mọc chen chúc. Chiều chiều, bông tra rụng lả tả, trôi vàng rực theo con nước. Lại còn bình bát, bần chát, bần ổi, thứ cây muôn thuở ở làng tôi, như là định mệnh từ tiền kiếp về sự nghèo khó, quê mùa, lạc hậu. Tre thì toàn là tre gai, cây nào cây nấy còm cõi, phờ phạc; trưa hè, gió chướng lao rao, tre đánh võng kèn kẹt như than thở, thân cây nổ lốp đốp, nghe muốn não ruột. Ban ngày đã buồn rứt, đêm xuống còn tệ hơn. Cả làng, dường như nhà nào cũng thắp sáng bằng rọi mù u. Lửa rọi mù u chập chờn, hiu hắt trong cảnh cô quạnh. U ơ tiếng trẻ khóc sữa. Vu vơ tiếng chó cắn trăng khuya dai nhanh nhách. Canh gà eo  óc, bâng quơ tới chột dạ. Thảng hoặc, năm thì mười họa, mới có gánh hát ế ẩm hạ cố tới làng dựng rạp. Rạp quây bằng tôn, bằng mê bồ, vải bố, rối bòng bong. Kép hát ăn ngủ ngay dưới sạp diễn. Xung quanh phơi phóng loè loẹt những bộ quần áo vua chúa, quan quân, thần phật, ma quỷ… nhung nhúc rận rệp. Đào kép  coi cũng bèo nhèo phờ phạc như vậy. Các cô đào ban ngày ngồi chơi tứ sắc, hoặc nằm ngồi ngã ngớn đọc sách ái tình. Các anh kép khật khừ rượi đế với cóc ổi, tầm duộc chấm muối ớt. Tóc tai nam nữ dài muốn bằng nhau. Họ túm tụm thành một thế giới riêng, bởi làng tôi chẳng có gì khả dĩ lôi cuốn, hấp dẫn đối với họ.
Nhà tôi thuộc loại khá, nhưng cũng chỉ cất bằng tre lá sơ sài. Gia tài đáng giá nhất là cái tủ thờ gỗ bên, lên nước đen bóng, bên trên có một bộ lư đồng cổ, đóng bụi quanh năm. Đó là tủ thờ ông nội tôi và tía tôi. Nội tôi chết bất đắc kỳ tử vì uống rượu trúng gió. Tía tôi cũng chết vì rượu, nhưng là do say rượu, nổi khùng, gây sự với thằng đồn trưởng, bị hắn móc côn đui lảy trọn một băng vô bụng. Bà nội tôi còn sống. Nội già cả, hom hem, lúc nào cũng còng lưng ngồi ngoáy cơi trầu trên bộ ngựa lăm nhăm vết miểng bom, miểng pháo. Còn mẹ tôi, từ ngày bị bom ép, tai nghểnh ngãng, tính tình lầm lì ít nói, lặng lẽ quanh năm như chiếc bóng. Hai người đàn bà lớn tuổi ngồi với nhau mà xa vời như hai thế giới. Mẹ rất ít nói chuyện với tôi.  Còn nội thì thích nhất là có ai đó ngồi nghe nội kể chuyện ma quỷ trong làng. Theo nội, người ta ai chết cũng thành ma, đi lang thang trong trời đất, người sống không biết thờ phượng thì sẽ bị hồn ma kéo về ăn tàn phá hại, khiến cho tán gia bại sản.
Biết tôi hay tắm sông, tắm rạch, nội thường đe:
- Không được léo hánh tắm ở khúc sông cây gáo! Ma da bắt mày có ngày!
Ma da tôi chưa hề nhìn thấy, chứ người đàn bà chết ở khúc sông ấy, tôi đã nhìn tận mắt. Đó là chị Nghiềm, con bà Chín Bỏi. Chị Nghiềm mắc bệnh kinh phong từ nhỏ. Lớn lên, chị đẹp như hoa khế, bị lính đồn để ý, đè ra hãm hiếp tới đeo bệnh tâm thần. Khi bụng bầu chum chủm, cum cúm như úp rỗ, tự dưng chị trút bỏ áo xống, nhảy xuống khúc sông cây gáo mà chết. Mấy ngày sau, xác nổi ngửa lềnh phềnh, da thịt nứt ra vì cháy nắng. Kéo lên, miệng chị ộc ra bụm máu đỏ lờn lợt. Mấy ngày liền, tôi rùng mình ớn lạnh, không ăn nổi chén cơm.
Xung quanh nhà bà Chín Bỏi cũng có nhiều chuyện thêu dệt lạnh người. Nhất là từ khi ông Chín chết do bị sóng lưỡi búa đánh lật ghe ngoài vàm. Người ta đồn ông thường hiện về, ngồi thu lu hút thuốc rê trảng nơi gốc cây còng ở bến nước nhà ông. Đó là nơi mà những chiều rảnh rang, khi còn sống, ông Chín thường ra ngồi. Hồi nhỏ tí nị, thỉnh thoảng tôi vẫn lân la tới ngồi với ông. Ông kể cho tôi nghe chuyện trên trời dươi đất. Chuyện nghe vừa thật vừa không thật, nhưng chuyện nào cũng mùi. Mùi nhất là chuyện tình anh trai nghèo với cô hàng chèo ghe bán dạo. Hễ dứt chuyện đó, ông Chín thế nào cũng hắng giọng, cất tiếng ca khào khào như gió thoảng ngoài đồng đưng. Thoạt đầu, ông dợm miệng bản « Văn Thiên Tường » :
 
Là hò liu xàng xề xàng
Xế xể xang tồn xế xảng xế xang
 
Liền đó, ông ca như bứt ruột, bứt gan ra mà vò xé :
 
Vì tình kia thân sanh sao đắng cay
Thay thương thay đang khi gian truân
Bâng khuâng lúc chia tay
Thiếp yểm lụy ngỏ cùng chàng
Vì cảnh nhà hàn vi
Nên mới chia  li
Khi đưa nhau tay nắm tay dặn dò
Đến lúc đắc lộ chàng có nghĩ
Đến chút tình tào khang
Taydâng chén này hôm nay
 
Giọng ông Chín như gió, như nước, gieo buồn rười rượi. Hơi ông Chín phát ra đứt đoạn, nghe như tiếng nấc đau đớn, nghẹn ngào, rưng rức nỗi than thân trách phận. Người làng nói, bản ấy ông Chín ca cho duyên phận của mình. Tôi vẫn nghe nội kể: Ông Chín ngày xưa phải lòng cô hàng chèo ghe bán dạo. Cô đẹp và ngon như cái bánh ít trần. Con trai chánh tổng mê cô, đòi sắm lễ đi hỏi. Cô không chịu, bỏ nhà chèo ghe trốn đi cùng ông Chín. Người nhà cô rượt theo, trói lại đem về. Ông chín bị chánh tổng thù, làm cho gia cư tan nát. Về sau ông Chín đưa bà Chín đi biệt xứ, tới làng tôi sinh sống. Bà Chín Bỏi bây giờ, hồi đó là người ca ra bộ có tiếng, bà phải lòng tiếng đàn cò độc chiêu của ông Chín, bởi vậy hai người mới thành thân. Nghe nói, hồi vợ chồng ông Chín tới làng tôi định cư, ông Hai Cà mê mết giọng ca và nhan sắc của bà Chín, tối ngày bỏ bê công việc, tới chàng ràng bày trò nhậu nhẹt với ông Chín. Hai Cà sinh sống bằng đủ nghề. Từ mãi võ Sơn Đông tới cải mả, người chắc lẳn như đắp bằng đồng, mắt có thần, sống ngang tàng, không biết sợ ai. Vậy mà mỗi lần nghe bà Chín ca dứt một bản, nước mắt Hai Cà lại trào ra. Sau này Hai Cà chết tức tửi, vì bị vu oan giá họa. Mộ Hai Cà do vợ chồng ông Chín dựng ngoài gò rắn lục. Ngày cải mả, mới đào được vài leng, đã thấy một làn hơi xam xám bốc lên mờ mịt. Cạy nắp hòm, lớp vải liệm còn i sì, xác Hai Cà vẫn nguyên vẹn, đôi mắt vẫn mở trừng trừng.
Người làng kể rằng: Càng ngày Hai Cà càng mê mết giọng ca bà Chín, riết rồi thành tai tiếng. Hai Cà oán giận miệng thế, bỏ làng đi xứ khác kiếm sống. Lâu lâu dành dụm được chút đỉnh, lại tom góp đem về biếu vợ chồng ông Chín, cốt để được nghe ông Chín đờn, bà Chín ca.
Bấy giờ Hai Cà đi ở coi nhà cho ông Hội đồng ở tổng trên. Ông Hội đồng có cậu con trai làm biếng chảy thây, không một chữ lận lưng, nhưng sự háo sắc thì không đổ đâu cho hết. Hắn tỏ vẻ tò vè tán tỉnh cả mấy bà mấy cô là người làm người ở. Loay hoay sao đó, hai cô người ở đeo bầu cùng một lúc. Biết Hai Cà được cha tin cẩn giao cai quản gia nhân đầy tớ, hắn bày mưu đổ vấy cho ông. Hắn nói: “Mấy con mẻ ngựa, mê sức vóc Hai Cà, chẳng những lén lút thậm thụt đêm hôm với ông, mà còn chôm chỉa tiền bạc đưa cho ông cất giữ”. Ông Hội đồng cho người khám xét chỗ ở của Hai Cà, qủa nhiên thấy có vòng vàng, xuyến bạc. Tra hỏi, Hai Cà chỉ một mực khai rằng, đó là của cải ông kiếm được khi đi bốc mả những ngôi mộ vô chủ, ông dành dụm để lo hậu sự cho mình, và để sau này giúp cho bạn. Nghe Hai Cà khai vậy, ông Hội đồng gặng hỏi, mãi mới được Hai Cà cho biết, tri âm của ông là vợ chồng Chín Bỏi. Vợ chồng ông Hội đồng không tin là Hai Cà lại có lòng tốt như vậy, thêm máu tham nổi lên, cả hai đeo dính lời vu vạ của cậu ấm, cho giải Hai Cà lên huyện. Quan Tây quan ta hè nhau đánh đập, rồi tống giam ông vào ngục tối. Trong khi đó, để buộc tội Hai Cà, cậu ấm nhà Hội đồng, đã khôn khéo dỗ ngon dỗ ngọt sao đó, mà cùng lúc, cả hai người đàn bà đeo bầu dẫn nhau đến công đường, khai là có bầu với Hai Cà, do Hai Cà ức hiếp. Hai Cà nghe tố oan, uất quá, vật đầu xuống sàn nhà, nứt hộp sọ mà chết.
Hai Cà đi năm trước, năm sau tới lượt ông Chín. Bà Chín ở vậy nuôi con tới giờ. Mẹ con nhà bà sống khép kín, ít quan hệ với ai. Cửa nhà lúc nào cũng im ỉm, lạnh lẽo, huyền bí. Nhiều người chém tay thề rằng: thường vào quá nửa đêm, lúc thì nghe tiếng đờn cò của ông Chín rên rỉ ủ ê, lúc thì nghe tiếng chân ông Hai Cà đi quyền huỳnh huỵch. Có người còn kể, mỗi lần có việc ngang qua nhà bà Chín, vẫn thấy con chó phèn đội chiếc nón lá từ dưới bếp chạy lên, quay mòng mòng mấy vòng,  rồi ngồi lết đít tru lên thê thảm. Tới chuyện bà Chín trợt chân cầu khỉ, đập đầu nhằm cọc tre, u lên một cục, người ta cũng cho là bị ma chọi đá, chọi gạch vì tội bắt cá hai tay.
Có một chuyện tôi thấy tận mắt, là chuyện bà Chín mời Cô tới lên đồng. Cô lên đồng, múa may quay cuồng một lúc, chụp nắm nhang huơ lên trời làm phép, nhảy dựng lên, trỏ tay vô ngực, xưng mình là chị Nghiềm. Chị Nghiềm nhập trong Cô, khóc than rền rĩ, đòi mẹ phải sắm lễ cúng nơi khúc sông cây gáo. Dứt lời, chị Nghiềm thăng thoát, để lại thân xác Cô xệch xạc, vạy vọ, té lăn dưới đất. Được một lúc, cô ngồi dậy đòi tiền bà Chín.
Cô đồng cũng là người trong làng trong xóm. Cô sống mình ên trong căn nhà lút giữa bốn bề dừa nước mọc tối trời tối đất. Cô mặt dài, tóc dài, chân tay cũng dài. Được cái Cô trắng và cũng mây mẩy, coi còn bắt con mắt. Nhiều lần tôi đi thọt thòi lòi trong đám dừa nước của Cô, tôi ngó thấy đàn ông thường chui ra từ căn nhà của Cô giữa ban ngày ban mặt. Ra tới cửa, họ nhìn xớn xác bốn phía, rồi lủi nhanh như chạch. Trong số đó, có chú Thất của tôi, và cả anh Hai của tôi.
Anh Hai tôi có chân trong tề xã, coi việc công an của ấp. Chức tước coi hiu vậy, chứ quyền lớn lắm, dân làng có đám gì cũng tới mời anh bằng được. Người ta nghe anh, nhưng anh có tật. Tật mê gái mà nội tôi ghét cay ghét đắng. Hồi chưa làm công an, tôi biết anh vẫn thường cùng đám tề xã rước gái về chơi ngoài ruộng; cứ mỗi lần như vậy, mỗi người đều phải hùn tiền lại trả, không thì phải góp một giạ lúa. Đến khi làm công an, anh không rước gái về nữa, thay vào đó, anh đi mò các bà goá trong làng.
Anh Hai tôi cũng là người mê mết cô Nghiềm, con gái bà Chín Bỏi. Cô Nghiềm to con, trắng trẻo, đẹp hây hẩy vẻ mời mọc. Trai làng không ai dám hỏi cưới, là bởi sợ bệnh kinh phong của cô; nhưng nhìn ngó, rình rập thì không ai là không có. Từ ngày cô Nghiềm Quyên sinh, nhà bà Chín Bỏi mới yên được đám trai làng máu mê quấy phá. Nhưng ngay trong nhà bà, một nhan sắc nữa đang mọc lên, đó là con Điềm, em út chót của cô Nghiềm, nó cũng chạng tuổi tôi. Làm như anh Hai tôi biết, con Điềm lớn lên sẽ đẹp, nên anh hay chàng ràng lượn quanh nó như cá lượn quanh hòn non bộ. Chị Hai tôi biết chuyện Cô, chuyện cô Nghiềm, nhưng không dám ghen, bởi anh Hai tôi ghen còn dữ dội hơn chị rất nhiều. Anh ghen tới mức, dù anh lớn hơn con Điềm ngoài chục tuổi, nhưng trai làng không ai dám léo hánh mò tới tán tỉnh con Điềm lấy một tiếng. Duy nhất chú Thất tôi là không sợ
Chú Thất hơn anh tôi mười một tuổi, là thợ mộc, chuyên đóng bàn ghế, giường tủ, quanh năm xách đồ nghề đi đóng thuê giáp vòng thiên hạ. Chú thuộc loại đẹp người, đa tài, đa tình; đi tới đâu cũng rù rì quen được đàn bà con gái tới đó. Nghe đâu chú có cả con rơi mị mị miệt U Minh nước đen nước đỏ. Mỗi lần chú về nhà, thế nào cũng đánh trần ra ngồi nhậu cả ngày. Tôi thích nhậu với chú, để nghe chú kể đủ thứ chuyện tầm phào trong đời, và đọc thơ. Thơ chú nghe ngồ ngộ.
 
Úi dà! Mưa chi hề mưa riết
Ta buồn cái giỏn giòn gion cũng buồn
                    Ta nhậu hề. Úi dà ! Sướng muốn chết luôn
Ta đã tử hề ôm mẹ nó
Mẹ nó hề mua thêm ve nữa
Tình tình ơi ! Ơi hỡi tình tình ơi !
 
Tính chú Thất vậy. Rượu xừng xừng là thích đọc thơ. Chú bắt cả nhà ra ngồi nghe. Cứ đọc xong mỗi bài, chú lại hỏi : « Được không ? ». rồi chú lại đọc. Đọc tới lẹo lưỡi mới thôi. Thường chú về không lâu, chỉ vài ngày lại đi. Chú nói : « Ta đi kiếm tiền. Ta đi kiếm tình. Tiền ta thả kẻ tay. Tình ta gieo mặt đất. Hề hề ta phải đi cho khắp. Không tiền hề tình cũng tiêu luôn ».
Thím Thất ở nhà với hai đứa con. Một là thằng Cọt. Tên Cọt mà bự bành như bò đực. Một là con Đèo. Nó cũng to cồ cộ. Cả hai đều không học hành gì, bởi chú Thất thì phiêu diêu làm vậy, còn thím Thất cũng cùi cụi làm lụng cả ngày, chẳng đoái hoài gì tới con cái. Nội nói: “Con mẹ Thất hư lắm!”. Tôi hiểu hư là thế nào. Thím bự con, tuổi xồn xồn, lại tối ngày ngồi bán đồ nhậu trong cái quán tút tít cuối góc chợ xã. Thường thì thím ngủ luôn ngoài quán để tiện việc buôn bán. Có lần tôi đi đám giỗ về khuya, khát nước, tính vô kiếm trái dừa uống, ai dè nhập nhoạng dươi ánh đèn dầu hôi, tôi thấy ràng ràng thím đang ngồi cưỡi ngựa trên bụng một gả đàn ông trần trùng trục. Thím vừa cưỡi vừa thở rít lên the thé. Được cái tính thím hề hà, tôi lỡ kẹt tiền chung với đám bạn, chỉ cần đánh tiếng, thím cũng móc hầu bao cho một vài trăm, mà không thèm hỏi xin để làm gì.
Thằng Cọt với tôi bằng tuổi nhau. Năm mười sáu tuổi, nó bỏ đi bụi đời trên phố. Trước khi đi, nó có qua rủ tôi: “Hòa bình rồi, ở quê chán thấy mồ! Suốt ngày hết giăng câu, đặt lờ, lại đi thọt bọng cua. Tao từng theo ổng ra thành một lần, tao biết, ở ngoải sướng nứt mắt”. Nói bữa trước, bữa sau nó dong tuốt luốt. Biền biệt mấy năm trời, một hôm nó lù lù xuất hiện. Tóc dài chấm vai, mặt coi kên kên, lãng tử. Quần gin thụng, áo lanh hoa, giày Adidat, đồng hồ Selko, kiếng mát Rayban.  Về buổi trưa, buổi chiều nó kêu tôi bơi xuồng đi nhậu. Không biết nó làm giống ôn hoàng gì ngoài thành mà tiền quá trời. Cả quán có mỗi thùng heiniken để lâu ngày đóng bụi, nó kêu luôn cả thùng. Lần đầu tiên trong đời tôi được uống bia. Quả là sướng thiệt. Mắc đái quá trời. Cọt nói: “Mầy yếu xìu”. Rồi nó kể tôi nghe cảnh ăn chơi văng hồn bạt mạng trên phố. Tôi nghe mắc thèm. Bởi cứ như lời thằng Cọt, thì nó cũng thuộc loại yêng hùng phố xá; tháng vài lần mát xa mát gần, tiêu xài xả cảng. Hỏi thì nó nhăn răng cười: “Ở ngoải thiếu gì việc hái ra tiền. Có tiền thì… vua. Vua tít mù luôn! Mầy cứ theo tao khắc biết!”.
Tôi vẫn biết ở làng buồn lắm. Hoà bình đã gần chục năm nhưng vẫn nghèo bấy bá.  Ngày thì chó nhách sủa người lạ. Đêm thì hiu hắt lửa đèn dầu hôi. Nhưng bỏ làng ra đi thì tôi không dám. Tôi sợ mình không làm được gì khác ngoài làm ruộng. Từ nhỏ đến lớn tôi chỉ sống ở quê. Tôi thấy ở quê như vầy cũng là quá đủ với mình rồi. Khi thằng Cọt về làng lần thứ hai, mắt tôi hoa lên, không còn nhận ra nó. Quần xẹc len. Sơ mi cài măng sét. Nón phớt hiệu Ăng Lê. Ăn nhậu vinh vang hơn. Nó qua chơi, biếu tôi cái quần bò levis, rồi kể vung văng những chuyện đổi mới gì đó ngoài thành. Tôi nghe chảy ra những từ lạ hoắc. Nào là cơ chế, nào là thị trường, nào là mở cửa, nào là cạnh tranh… Có trời mới biết những điều Cọt nói ra làm sao. Ở làng tôi, đâu vẫn vào đó. Cầu khỉ vẫn chênh vênh. Trường học vẫn tuếch toác. Trạm xá vẫn trống lổng. Mấy ông già đi chợ mua thuốc rê trảng, về lôi tấm giấy nhật trình gói thuốc ra vuốt cho phẳng phiu, đọc những mẫu tin cũ xì trên đó, tưởng là mới lắm, đem ra bình luận cả ngày. Của đáng tội, trong làng cũng đã vài nhà sắm được ti vi đen trắng, nhưng dùng điện bình tốn kém nên họ chỉ vặn lên coi vào tối thứ bảy, bởi lẽ, thứ bảy có chương trình cải lương. Cọt nói : « Làng mình lạc hậu thấy mụ nội! Mở miệng toàn bình phẩm về Chế Linh, Lệ Thủy, cấm thấy ai nói về kinh tế mở, kinh tế khép ». Nghe nó nói, tự nhiên tôi cũng thấy mình lạc hậu cả thế kỷ. Cứ  ru rú xó nhà, mình có thấy gì ngoài giăng trâm bầu, ngoài hàng so đũa. Gặt xong miếng ruộng, vựa lúa vô bồ, cứ nghĩ chừng đó là tất cả. Mấy ai được như thằng Cọt. Nó đi xuôi ngược Bắc – Nam, kể vanh vách về than Cẩm Phả, gang thép Thái Nguyên, dầu khí Vũng Tàu, cao su Sông Bé… Nghe cả ngày tôi cũng không thể hình dung ra được thuỷ điện sông Đà ra làm sao, chỉ muốn nhảo ra thành, theo nó bôn ba một chuyến cho biết.
Chừng bơi xuồng ra chợ xã để trở lại thành, giữa đường, Cọt hỏi : « Mầy xốp con Điềm nhà Chín Bỏi chưa ? Nó ngon gấp mấy lần đám mắt xanh mỏ đỏ ngoài thành. ». Nó hỏi xong, ngồi thần ra chép lưỡi.
Cả ngày hôm đó, và cả mấy ngày hôm sau, tôi cứ nghĩ mãi về con Điềm. Gương mặt con Điềm không được như gương mặt chị Nghiềm, nhưng co người thì tuyệt. Nhất là cặp giò, cứ căng mẩy lên như mời mọc. Lại còn mông và ngực. Cứ như đánh đố trai làng. Bấy giờ nó đã ngoài hai mươi, nhưng chưa thấy ai trầu cau tới rước. Có lẽ người ta sợ nó sau này  cũng mắc chứng kinh phong như chị nó. Nội nói : « Tao chịu con Điềm nhứt xóm. Đẹp người, đẹp nết, lại giỏi chuyện nhà nông ».
Một hôm đi ruộng, tôi gặp con Điềm đang lui cui bắt ốc trên đám ruộng nhà Bỉnh. Tôi đứng lại vấn một điếu thuốc, châm lửa rít một hơi dài, rồi gọi :
- Cô Điềm ơi ! Có thư anh Cọt nè !
Điềm tưởng thật, lên ngay. Tôi thọc một tay vào túi quần, giả bộ giấu lá thư trong đó. Điềm hỏi : « Đâu ? ». Tôi biểu : « Thưởng rồi mới đưa ». Điềm nói : « Đồ qủy ! ». Tôi đáp : « Đâu qủy bằng anh Cọt của cô ». Điềm đỏ mặt. « Nói bậy nói bạ quen mồm. Người ta có bồ rồi nghe. Đừng nói kiểu cà chớn như anh Cọt à nghen ! ». Tôi biết bồ đây là đứa nào. Thằng Đực con nhà Sáu Tửng thì ai lạ gì. Nhà Sáu Tửng tuy nghèo, nhưng con cháu đứa nào cũng được ăn học. Riêng thằng Đực học hết cấp ba đàng hoàng. Tôi không biết hắn học được những giống gì ngoài huyện, chỉ biết hắn vì nhai chữ trần ai lai khổ  mà ốm nhách như con cá  lẹp. Được cái, lối xóm ai nhờ gì nó cũng giúp tới nơi tới chốn. Do có chữ nghĩa bỏ bụng, thằng Đực được mời làm chân thư ký Ủy ban xã. Kể vậy cũng là oai  nhất xóm. Nó có đứa em gái gởi đi sống với người bà con từ nhỏ. Bây giờ chắc cũng bằng tuổi con Điềm. Hồi đó, gia đình Sáu Tửng làm ăn sa sút, nên tiếng là gởi con mà cũng như đem con đi thí cho người ta nuôi giùm. Từ sau giải phóng tới giờ, chưa bao giờ nghe gia đình thằng Đực nhắc tới đứa em của nó.
Đứng đối đáp với tôi một lúc, biết bị mắc lừa, Điềm quay ngoắt bỏ đi. Tôi đứng chống phảng trên bờ nhìn theo một chặp, tay chân nóng ran lên. Điềm đẹp thiệt. Phổng phao như trái cam sành, cứ nhìn là thấy tứa mật ra ngọt lịm. Giá mình có tiền như thằng Cọt, không biết mình có xốp được nó không. Thằng Cọt kể ra thành lâu cũng có lý, mới về làng đã nhận ra sự mặn mòi của con Điềm ; có đâu cù lần như tôi, nhà cùng ấp mà không nhận ra con Điềm thơm ngon hết ý. Rõ là thằng Đực còm trúng số. Ai chứ con Điềm, đừng hòng lẳng lơ với nó ; lơ mơ là coi chừng nó cho bài học tởn tới già.
Lúc trở về, tôi nhận được thư thằng Cọt. Nó viết nguệch ngoạc bằng thứ chữ cua bò gà bới, nét chữ to cồ cộ. Nó khoe vừa trúng mánh, mời tôi ra chơi, rủ được con Điềm càng tốt. Té ra nó đã biết chữ.
Nội tôi, mẹ tôi, mẹ thằng Cọt mừng húm. Nhất là nội. Nội hết rờ lá thư, lại bắt tôi đọc. Đọc đi đọc lại. Nội chắc lưỡi. « Cái thằng lêu bêu vậy mà giờ cũng biết chữ. Má thằng Cọt liệu bề tính chuyện vợ con cho nó là vừa ».
Từ nhỏ tới lớn tôi chỉ sống ở quê. Quê tôi nghèo lắm. Lần đầu tiên tôi được ra phố. Phố ồn ào náo nhiệt, xe cộ, người ngợm đi lại nườm nượp. Ai cũng ăn vận đẹp hết chỗ chê. Nhà cửa, phố xá thì khỏi phải nói. Chỉ khổ cái là khói và bụi bặm nhiều qúa. Lại còn tiếng ồn đinh tai nhức óc.
Gặp nhau, Cọt hỏi :
- Không mời con Điềm à ?
- Nó không chịu đi.
- Sao vậy ?
- Thì không chịu đi chứ sao !
- Vậy mầy xốp nó chưa ?
Tôi nói đại là xốp rồi, bởi tôi sợ thằng Cọt chê tôi là dân nhà quê. Thật tình, tôi được con Điềm xốp cho một bạt tai rát bỏng. Số là khi tôi đưa thư thằng Cọt cho Điềm đọc, thấy gương mặt nó hồng hồng, tôi nghĩ, có khi nó dính thằng Cọt thiệt, vậy là tôi nhào tới ôm đại, hun một miếng. Thành ra tôi được một cái xốp ra trò. Nghe tôi nói, thằng Cọt bỉu môi. « Dóc tổ cha nội. Tới tao còn bị nó xốp cái bộp nữa là mầy ».
Cọt kêu xe lôi đưa tôi đi nhà hàng, biểu ăn chơi cho biết. Dọc đường nó không ngớt khen con Điềm. Theo như nó thì con Điềm mới đáng mặt con gái. Thứ con gái mắt xanh mỏ đỏ ở thành, ăn chơi ưỡn à ưỡn ẹo chỉ là giặc, rặt một nghề móc tiền thiên hạ. Hắn nói, vô nhà hàng, mình chưa hết lon bia, mấy ả đã dốc đi đâu đó hai ba lon ; mình kêu món này chưa hết, mấy ả đã gọi giùm món khác. Chừng tính tiền, muốn trào máu họng. Hắn nói rồi phẩy tay : « Đời mà ! Móc qua móc lại trong túi của nhau. Đâu cũng vậy ! ».
Hai chúng tôi đi lút ra ngoại ô, chui vào một quán bề ngoài lèng èng, xập xệ, không thấy đề biển hiệu. Ngay phòng ngoài, mấy gả trai to lớn dềnh dàng, cởi trần trùng trục, ngồi đánh tu lơ khơ, dáng vẻ như bất cần đời. Cọt nói : « Vệ sĩ đó ! Tới công an còn ngán tụi nó.».
Có tiền có khác. Trong khi tôi vừa đi vừa nhìn tò mò, lấm lét thì Cọt hai tay thọc túi quần, bước đi khệnh khạng như ông hoàng. Một cô gái váy ngắn củn cỡn chạy ra ôm vai Cọt, hắn hê lô một tiếng rồi kéo cổ cô ta hun cái chụt. Một cô khác tuôn ra, Cọt vung tay vỗ mông cô ta cái phạch. Cô nào cũng bị hắn hun và vỗ mông như vậy. Không thấy cô nào là không đon đả, không cười híp mắt với hắn. Các cô líu tíu vít đầu hắn. « Hai, uống với em nghe anh Hai ! ». Hắn dùng cả hai tay xoa bụng xoa ngực các cô, trả lời lấp lững. « Để rối tính ». Tướng tá tôi lúc đó chắc quê một cục nên ít được các cô quan tâm săn đón, nhưng khi ngồi yên vị cũng có một cô đến với tôi. Cô ta coi ngon như miếng mỡ, vậy mà tôi không dám đụng cựa gì. Tôi sống từ nhỏ tới lớn ở quê, tôi sợ. Tôi sợ đủ thứ trên đời. Sợ mình sái đạo. Sợ bịnh. Sợ công an. Sợ thằng Cọt coi thường. Sợ cả cô gái xinh đẹp, thơm phưng phức như múi mít.
Trong khi tôi ngồi ngay cán tàn, thì thằng Cọt đã ôm ghì cô gái của nó vào lòng. Cứ mỗi lần cô gái nâng ly cho hắn uống, hắn lại hun cô gái một miếng. Hai tay hắn sục sạo thân thể cô như rắn bò sột soạt. Tôi ngứa ngáy, muốn bắt chước, nhưng lại sợ. Tôi sống từ nhỏ ở quê. Quê tôi trai gái ngồi kế nhau còn mắc cỡ. Chừng vô được vài lon cửng cửng, tôi hăng lên chút đỉnh, rụt rè chạm bàn tay lên đùi cô. Cô cười: “Anh Hai hiền quá chừng. Bộ anh mới vô đây lần đầu?”.
Ngu như con bò, tôi kể cho cô ta nghe hết về mình, về quê. Tôi khoe ở làng có cô Điềm rất đẹp, nhưng chưa ai dám cưới, vì sợ cô sẽ mắc bịnh kinh phong như người chị. Ngon trớn, tôi kể luôn chuyện thằng Đực với cô Điềm đang phải lòng nhau. Rồi không biết ai móc miệng, tôi kể tuốt luốt mọi chuyện ở  quê. Cô gái càng nghe càng chăm chú, tôi càng kể càng say sưa. Chưa bao giờ tôi thấy ngứa miệng như bấy giờ. Tôi kể như chưa bao giờ được kể. Cứ thế mà kể. Kể quanh quẩn toàn chuyện ở quê, ở làng.
Khi thằng Cọt đã kè cô gái của nó đi đâu đó, tự dưng tôi thấy trống vắng, hụt hẩng. Tôi thừ ra một lúc rồi hỏi:
- Mà chị tên chi? Quê đâu cà?
Cô gái tỏ ra buồn bả, chớp chớp mắt mấy cái mới trả lời:
- Ai hỏi tụi em cũng chỉ nói dối cho xong. Nhưng với anh… em nói thiệt. Không biết anh có tin em?
Tôi nhìn vào mắt cô. Tôi biết cô đang buồn. Nỗi buồn như nước, nó thấm ướt được tâm hồn người khác. Nỗi buồn như lửa, nó thiêu đốt tâm can người khác. Nó như bàn tay vô hình bóp nặn trái tim ta, làm cho ta thổn thức cùng với nó. Nó như ngọn gió, ru ta vào nơi sâu thẳm tâm linh. Từ nới sâu thăm ấy, tôi cảm nhận bàn tay nóng ấm của cô nắm tay tôi, hôi hổi trong tay tôi, cùng với tiếng nói thoảng như từ khơi xa vọng lại.
- Mơi anh đợi em ở… Anh đến nghen!
 
Nết xa nhà theo người chú họ từ nhỏ. Người chú đi lính, rồi chết trận. Nết theo người thím goá chồng ra thành. Thím cháu sống lần hồi bằng nghề vựa củi cây nơi bến sông. Rồi người thím bịnh triền miên, Nết phải đi bán bia ôm. Bán bia ôm cũng trăm bề cơ cực. Bữa thì ông bụng bự, đáng tuổi cha. Bữa thì đứa choai choai, đáng tuổi em. Bữa anh phu khuân vác, bữa thằng đàn ông đầu trộm đuôi cướp. Nhất nhất đều gọi Nết là em, là cưng. Nhất nhất đều đòi sục sạo, đòi khám phá, đòi tươi mát. Biết làm sao. Từ chối thì chủ hăm he dọa nạt, dọa sa thải cấp kỳ. Lại còn mắc đứa du thủ du thực, dọa chặn đường gây án. Nết phải răm rắp nghe theo chủ. Nết thành đàn bà đầu tiên với một lão già sáu lăm lắm của.
Mà Nết là ai. Nết chính là em thằng Đực, là người cùng làng với tôi. Nết chính là cô gái bia ôm mà tôi đã dốc bầu tâm sự, là người đã hẹn tôi đến để cùng bỏ về quê.
Khi thấy Nết cùng tôi lên xe, thằng Cọt há hốc mồm.
- Ai dè mầy ngon hơn tao ha!
Tôi đáp gọn lỏn:
- Chuyện đời thường ở quê mà!

HTT

 

 Trả lời nhanh
Nhập vào tên của bạn:
Nhập mã số xác nhận (bắt buộc):
» Hiển thị cửa sổ mặt cười       » Download bộ gõ tiếng Việt Unikey
 Bạn có muốn chuyển các ký hiệu như :) :( :D ...thành mặt cười trong bài viết này?
 Bạn có muốn chèn thêm chữ ký vào bài viết này ?
 


 
Thông tin cá nhân

tinhtam
Họ tên: Hồ Xuân Tâm
Nghề nghiệp: nhà văn
Sinh nhật: : 11 Tháng 11 - 1952
Nơi ở: thị xã Vĩnh Long
Yahoo: hotinhtam52  
Trạng thái: User is offline (Vắng mặt)
Thêm vào nhóm bạn bè
Gửi tin nhắn
xin gởi con Người tình yêu bỏng cháy của tôi

Bạn bè
thanhquoc
thanhquoc
baomuahe
baomuahe
Nguyễn Ý Lan-SKHCN
Nguyễn Ý Lan-SKHCN
le_phi47
le_phi47
[email protected]
hoang_lan_20042002@hopthu.com
Hoa Bách Hợp
Hoa Bách Hợp
anh dại khờ
anh dại khờ
_.MTk_
_.MTk_
Link17493
Link17493
meocon_1990
meocon_1990
Xem tất cả

CHBTNSB
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30




(♥ Góc Thơ ♥)

Tik Tik Tak

Truyện cười

thời tiết, tin nhanh, vàng, tỉ giá
thời tiết, tin nhanh, vàng, tỉ giá

Thời tiết

Lượt xem thứ:





Mạng xã hội của người Việt Nam.
VnVista I-Shine © 2005 - 2025   VnVista.com