Thu tứ Tịch dương hồng vu thiếu Tình không bích thắng lam Thú hình vân bất nhất Cung thế nguyệt sơ tam Nhạn tứ lai thiên bắc Châm sầu mãn thuỷ nam Tiêu điều thu khí vị Vị lão dĩ thâm an
Dịch Nghĩa Ý nghĩ mùa thu
Nắng chiều đỏ rực hơn lửa nung Bầu trời tạnh ráo biếc xanh hơn màu lam Mây có dạng thú vật không xác định Trăng mùng ba hình vành cung Chim nhạn nhớ về trời bắc Tiếng chày đá buồn vang sông nam Khí vị mùa thu thật não nùng Tuy chưa già mà đã từng trải nhiều.
Dịch Thơ Nắng xế hồng như lửa Trời trong biếc mịt mùng Mây thay hình thú vật Trăng mới dạng vành cung Trời bắc nhạn mong nhớ Sông nam chày não nùng Màu thu xơ xác thế Còn trẻ đã lao lung
Lê Nguyễn Lưu dịch
Bài viết đã được chỉnh sửa bởi p_thaithach: Jul 26 2006, 08:09 PM
Thượng Dương nhân! Thượng Dương nhân! Hồng nhan ám lão, bạch phát tân. Lục y giám sử thủ cung môn, Nhất bế Thượng Dương đa thiểu xuân? Huyền tông mạt tuế sơ tuyển nhập Nhập thời thập lục, kim lục thập, Đồng thời thái trạch bách dư nhân, Linh lạc niên thâm tàn thử thân. Ức tích thôn bi biệt thân tộc, Phù nhập xa trung bất giao khốc. Giai vân nhập nội tiện thừa ân, Kiểm tự phù dung, hung tự ngọc Vị dung quân vương đắc kiến diện, Dĩ bị Dương phi dao trắc mục Đố linh tiềm phối Thượng Dương cung, Nhất sinh toại hướng không phòng túc. Túc không phòng, thu dạ trường, Dạ trường vô mỵ thiên bất minh. Cảnh cảnh tàn đăng bối bích ảnh, Tiêu tiêu ám vũ đả song thanh. Xuân nhật trì, Nhật trì độc toạ thiên nan mộ, Cung oanh bách chuyển sầu yếm văn Lương yến song thê lão hưu đố, Oanh quy yến khứ trường tiễu nhiên, Xuân vãng thu lai bất ký niên, Duy hướng thâm cung vọng minh nguyệt. Đông tây tú ngũ bách hồi viên. Kim nhật cung trung niên tối lão, Đại gia dao tứ thượng thư hiệu, Tiểu đầu hài lý trách y thường, Thanh đại điểm mi, mi tế trường. Ngoại nhân bất kiến, kiến ưng tiếu, Thiên Bảo mạt niên thời thế trang! Thượng Dương nhân, khổ tối đa, Thiếu diệc khổ, lão diệc khổ, Thiếu khổ, lão khổ lưỡng như hà? Quân bất kiến, Tích thời Lã Thượng mỹ nhân phú, Hựu bất kiến. Kim nhật Thượng Dương cung nhân bạch phát ca
Dịch Nghĩa
Người cung Thượng Dương! người cung Thượng Dương! Má hồng âm thầm già, tóc ngày bạc thêm. Quan thái giám áo xanh, cắt cho việc canh cửa cung. Từ khi giam vào cung Thượng Dương, đến nay trải đã bao xuân Cuối đời Huyền Tông (2) bắt đầu tuyển vào, Lúc vào mười sáu, nay sáu mươi tuổi. Cùng một lớp tuyển có hơn trăm người, Lâu năm rơi rụng, nay còn thân tàn này sót lại. Nhớ khi nuốt sầu từ biệt thân thích, họ hàng, Bị dìu lên xe, không cho khóc Ai cũng bào vào cung là được nhờ ơn ngay, Má đỏ như hoa sen, ngực trắng như ngọc. Chưa được vua trông thấy mặt, Đã bị nàng Dương (3) lườm tự đằng xa. Vì ghen nên ngầm sai đầy vào cung Thượng Dương, Thế là cả đời nằm suông trong buồng vắng. Nằm buồng vắng, đêm thu dài. Đêm dài không ngủ, trời mãi chẳng sáng. Lẻ loi đèn tàn, bóng in trên vách, Mưa đêm rả rích, tiếng đập ngoài song, Ngày xuân trôi chầm chậm Ngày chầm chậm, ngồi một mình, trời mãi chẳng chiều. Oanh trong cung líu lo trăm giọng, buồn nghe đã chán tai. Én đậu sóng đôi trên giường nọ, tuổi già không còn ghen tị. Oanh về, én tếch, cảnh vẫn im lìm. Xuân lại thu quan, bao năm không nhớ, Duy ở chốn cung sâu, ngắm nhìn trăng sáng. Đông rồi lại tây, từng đã bốn năm trăm độ tròn (4) Ngày nay trong cung, tuổi mình già nhất. Mọi người đặt xa xôi cho cái tên : cụ Thượng. Đôi hài nhọn mũi, áo quần hẹp bó, Sáp đen lánh vẽ đôi mày nhỏ và dài. Người ngoài trông thấy, trông thấy hẳn cười: "Đấy! Lối điểm trang cuối đời Thiên Bảo!" (5) Người cung Thượng Dương khổ rất nhiều, Trẻ cũng khổ, già cũng khổ. Trẻ khổ già khổ, hai đường biết sao? Người há chẳng thấy bài phú "Người đẹp" của Lã Thượng (6) ngày trước ? Lại há chẳng thấy khúc hát "Đầu bạc" của người cung Thượng Dương ngày nay?
(1): Thượng Dương cung : Một trong những cung dành cho những cung phi bị Đường Minh Hoàng bỏ sau khi Dương Quí Phi vào cung (2) Huyền Tông:Đường Minh Hoàng (3)Nàng Dương : Dương quí phi (4)Thời gian độ bốn mươi năm (5)Thiên Bảo: niên hiệu Đường Minh Hoàng (6) Cuối năm Thiên Bảo, Minh Hoàng ngầm sai người đi tìm gái đẹp. Người ta gọi bọn này là hoa điểu sứ. Thủa ấy có Lã Thượng làm bài Mỹ nhân phú ngụ ý chê Đường Minh Hoàng
Dịch Thơ Người Thượng Dương
Người Thượng Dương Má phấn phai hồng mái tóc sương, Thái giám cắt vào việc giữ cửa, Đã mấy mươi xuân chịu bẽ bàng. Năm ngoái Huyền Tông mới kén vào, Khi vào mười sáu, nay sáu mươi Trăm người kén vào cung một lúc, Mòn mỏi xuân xanh suốt cả đời. Nhớ lúc ra đi biệt họ hàng, Dìu lên xe tiễn cấm buồn thương, Bảo vào cung cấm, được sung sướng, Mày mặt tươi hồng, ngực nở nang. Chưa được đức vua nhìn thấy mặt, Đã bị Dương Phi để ý ngầm. Ghen bắt đầy vào cung Thượng Dương, Phòng không từ đó sống âm thầm. Đêm thu dài, Đêm dài không ngủ giời tối hoài. Bên ngọn đèn tàn ngơ ngẩn bóng, Tí tách mưa đêm dội cửa ngoài. Ngày xuân chẩy, Ngày chẩy, võ võ trời lâu tối, Oanh vàng hát mãi chẳng buồn nghe, Trông én đậu đôi già chẳng ngơi Oanh đi én lại bao âm thầm Xuân tới thu qua chẳng nhớ năm Cung sâu chỉ biết nhìn trăng sáng Tình tuần trăng đã bốn năm trăm Ngay nay trong cung tuổi già nhất Ai nấy gọi đùa cụ Thượng thư Giày dép đi chật, áo quần hẹp Sáp xanh tô mày, mày nhỏ sẹp, Người ngoài không nhìn, nhìn phải cười, Cuối đời Thiên Bảo thế mới đẹp. Người Thượng Dương khổ rất nhiều, Trẻ cũng khổ, già cũng khổ, Trẻ khổ già khổ đều ra sao ? Anh không thấy bài phú "Mỹ nhân" xưa kia của Lã Thượng, Lại không thấy bài ca "người Thượng Dương tóc bạc" ngày nay ru?
Triệu thôn hồng hạnh mỗi niên khai Thập ngũ niên trung khán kỷ hồi Thất thập tam nhân nan tái đáo Kim niên lai thị biệt hoa lai
Dịch Nghĩa
Hoa hạnh đỏ xóm Triệu năm nào cũng nở Trong mười lăm năm, đã ngắm bao lần Năm bảy mươi ba tuổi khó có thể lại đến đây Năm nay đến đây, là để từ biệt hoa
Dịch Thơ Hoa Hạnh Đỏ Xóm Triệu
Triệu thôn hạnh đỏ nở năm năm Hơn chục năm nay ngắm mấy lần Ông lão bảy ba khôn trở lại Nay cùng hoa biệt đến đây thăm
Mãn viên hoa cúc uất kim hoàng, Trung hữu cô tùng sắc tự sương. Hoàn tự kim triêu ca tửu tịch, Bạch đầu ông nhập thiếu niên trường.
Dịch Nghĩa
Trên bàn tiệc ngày Trùng Dương,vịnh hoa cúc trắng Đầy vườn cúc nở hoa vàng màu nghệ, Trong đó có một chòm lẻ loi trắng như sương. Cũng giống như sáng nay trên bàn tiệc hát và rượu Ông già tóc bạc chen vào đám tuổi trẻ.
Dịch Thơ
Cúc nở đầy vườn tựa nghệ pha, Trắng như sương sớm một chòm hoa Khác gì buổi sáng trên bàn tiệc, Giữa đám thanh niên một lão già !
Người dịch Lê Nguyễn Lưu
bản dịch khác
Đầy vườn hoa cúc vàng như nghệ Một khóm như sương trắng trắng tinh Tiệc rượu sớm nay cũng giống thế Một ông đầu bạc giữa đầu xanh
Vạn lý thanh quang bất khả ty Thiên sầu ích hận nhiễu thiên nhai Thuỳ nhân lũng ngoại cửu chinh thú Hà xứ đình tiền tận biệt ly Thất sủng cố cơ quy viện dạ Một phiên lão tướng thướng lâu thì Chiếu tha kỉ thử nhân trường đoạn Ngọc thố ngân thiềm viễn bất tri
Dịch Nghĩa Trăng mùa thu
Ánh sáng muôn dặm trong trẻo không thể tưởng Nỗi buồn tăng thêm,nỗi giận chồng chất đầy trời. Ngoài cõi gò bãi,ai người đi lính lâu ngày ? Trước sân nơi nào cũng là chốn ly biệt. Đây là đêm nàng cung nữ hết được yêu về viện Cũng là lúc ông tướng già thua trận mất đất lên lầu. Ánh trăng soi làm cho họ xót xa đứt ruột Thỏ ngọc cóc bạc ở nơi tít mù có biết gì đâu !
Dịch Thơ Muôn dặm trăng trong sáng tuyệt vời Sầu chan hận chứa khắp muôn nơi Đồn xa đóng giữ kìa bao kẻ Sân trước chia ly ấy mấy nơi. Lão tướng lên lầu khi thất trận Cung phi về viện lúc vua lơi Soi cho đứt ruột bao người thế Cóc thỏ mù xa há biết đời !
Huyên huyên xa kỵ đế vương châu Ky bệnh vô tâm trục thắng du Minh nguyệt thanh phong tam ngũ dạ Vạn nhân hành lạc nhất nhân sầu.
Dịch Nghĩa Rằm tháng giêng ở Trường An Chốn kinh đô xe ngựa rầm rầm Ốm nơi đất khách không còn lòng nào nghĩ đến việc đi ngoạn cảnh nữa Đêm rằm này trăng thanh gió mát Muôn nguời vui vẻ, riêng một người sầu
Dịch Thơ Xe ngựa rầm rầm chốn đế châu, Quê người đau ốm thiết gì đâu! Đêm rằm gió mát trăng thanh đó, Muôn kẻ mua vui, một kẻ sầu!
Hán hoàng vị sắc tư khuynh quốc Ngự vũ đa niên cầu bất đắc Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức Thiên sinh lệ chất nan tự khí Nhất chiêu tuyển tại quân vương trắc Hồi đầu nhất tiếu bách mị sinh Lục cung phấn đại vô nhan sắc Xuân hàn tứ dục Thanh Hoa trì Ôn tuyền thủy hoạt tẩy ngưng chi Thị nhi phù khởi kiều vô lực Thủy thị tân thừa ân trạch thì Vân mấn hoa nhan kim bộ dao Phù dung trướng noãn độ xuân tiêu Xuân tiêu khổ đoản nhật cao khởi Tòng thử quân vương bất tảo triều Thừa hoan thị yến vô nhàn hạ Xuân tòng xuân du dạ chuyển dạ Hậu cung giai lệ tam thiên nhân Tam thiên sủng ái tại nhất nhân Kim ốc trang thành kiều thị dạ Ngọc lâu yến bãi túy hòa xuân Tỷ muội huynh đệ giai liệt thổ Khả liên quang thái sinh môn hộ Toại linh thiên hạ phụ mẫu tâm Bất trọng sinh nam trọng sinh nữ Ly cung cao xứ nhập thanh vân Tiên nhạc phong phiêu xứ xứ văn Hoãn ca mạn vũ ngưng ty trúc Tận nhật quân vương khan bất túc Ngư Dương bề cổ động địa lai Kinh phá Nghê thường vũ y khúc Cửu trùng thành khuyết yên trần sinh Thiên thặng vạn kỵ tây nam hành Thúy hoa dao dao hành phục chỉ Tây xuất đô môn bách dư lý Lục quân bất phát vô nại hà Uyển chuyển nga mi mã tiền tử Hoa điền ủy địa vô nhân thu Thúy kiều, kim tước, ngọc tao đầu Quân vương yểm diện cứu bất đắc Hồi khan huyết lệ tương hòa lưu Hoàng ai tản mạn phong tiêu tác Vân sạn oanh vu đăng Kiếm Các Nga My sơn hạ thiểu nhân hành Tinh kỳ vô quang nhật sắc bạc Thục giang thủy bích Thục sơn thanh Thánh chủ trieu triêu mộ mộ tình Hành cung kiến nguyệt thương tâm sắc Dạ vũ văn linh trường đoạn thanh Thiên tuyền địa chuyển hồi long ngự Đáo thử trừ trừ bất nhẫn khứ Mã Ngôi pha hạ nê thổ trung Bất kiến ngọc nhan không tử xứ Quân thần tương cố tận triêm y Đông vọng đô môn tín mã quy Quy lai trì uyển giai y cựu Thái Dịch phù dung Vỵ Ương liễu; Phù dung như diện liễu như mi Đối thử như hà bất lệ thùy Xuân phong đào lý hoa khai nhật Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì Tây cung nam nội đa thu thảo Lạc diệp mãn giai hồng bất tảo Lê viên đệ tử bạch phát tân Tiêu phòng a giám thanh nga lão Tịch điện huỳnh phi tứ tiễu nhiên Cô đăng khiêu tận vị thành miên Trì trì chung cổ sơ trường dạ Cảnh cảnh tinh hà dục thự thiên Uyên ương ngõa lãnh sương hoa trọng Phỉ thủy khâm hàn thùy dữ cộng Du du sinh tử biệt kinh niên Hồn phách bất tằng lai nhập mộng Lâm Cùng đạo sĩ Hồng Đô khách Năng dĩ tinh thành trí hồn phách Vị cảm quân vương triển chuyển tư Toại giao phương sĩ ân cần mịch Bài không ngự khí bôn như điện Thăng thiên nhập địa cầu chi biến Thượng cùng bích lạc hạ hoàng tuyền Lưỡng xứ mang mang giai bất kiến Hốt văn hải thượng hữu tiên sơn Sơn tại hư vô phiếu diểu gian Lâu các linh lung ngũ vân khởi Kỳ trung xước ước đa tiên tử Trung hữu nhất nhân tự Thái Chân Tuyết phu hoa mạo sâm si thị Kim khuyết tây sương khấu ngọc quynh Chuyển giao Tiểu Ngọc báo Song Thành Văn đạo Hán gia thiên tử sứ Cửu hoa trướng lý mộng hồn kinh Lãm y thôi chẩm khởi bồi hồi Châu bạc ngân bình di lý khai Vân kết bán thiên tân thụy giác Hoa quan bất chỉnh há đường lai Phong xuy tiên duệ phiêu phiêu cử Do tự Nghê Thường vũ y vũ Ngọc dung tịch mịch lệ lan can Lê hoa nhất chi xuân đới vũ Hàm tình ngưng thế tạ quân vương Nhất biệt tâm dung lưỡng diểu mang! Chiêu Dương điện lý ân ái tuyệt Bồng Lai cung trung nhật nguyệt trường Hồi đầu hạ vọng nhân hoàn xứ Bất kiến Trường An kiến trần vụ Duy tương cựu vật biểu thâm tình Điến hạp kim hoa ký tương khứ Thoa lưu nhất cổ, hạp nhất phiến Thoa tích hoàng kim hạp phân điến Đãn giao tâm tự kim điến kiên Thiên thượng nhân gian hội tương kiến Lâm biệt ân cần trung ký từ Từ trung hữu thệ lưỡng tâm tri: Thất nguyệt thất nhật Trường Sinh điện Dạ bán vô nhân tư ngữ thì "Tại thiên nguyệt tác tỵ dực điểu Tại địa nguyện vi liên lý chi" Thiên trường địa cửu hữu thì tận Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ
Dịch Nghĩa
Vua Hán (1) trọng sắc đẹp, muốn có một người nghiêng nước nghiêng thành Ở ngôi bao năm tìm kiếm không được Họ Dương có cô gái mới lớn lên Nuôi dạy ở nơi buồng the, người ngoài chưa ai biết Vẻ đẹp trời sinh khó tự bỏ hoài, Một sớm được tuyển vào bên vua Mỗi lần ngoành mặt, nhoẻn cười lộ ra trăm vẻ đáng yêu Sáu cung (2) son phấn không còn ai đáng gọi là có nhan sắc nữa Tiết xuân lạnh, được tắm ở hồ Hoa Thanh (3) Suối ấm, nước trơn dội trên da trắng mịn như mỡ đông Thị tỳ nâng dậy, yếu mềm như không còn sức nữa Ấy là lần đầu tiên được thấm nhuần ơn vua Tóc mây, mặt hoa, những chuỗi ngọc trên đầu rung rinh Trướng phù dung ấm trải qua đêm xuân Bực nỗi đêm xuân ngắn ngủi, mặt trời lên cao rồi mới dậy Từ đấy vua không ra coi chầu sớm nữa Khi mua vui, khi hầu tiệc, chẳng lúc nào ngơi Mùa xuân theo đi chơi xuân, đêm nào cũng là đêm riêng của nàng với vua Gái đẹp nơi hậu cung hàng ba ngìn người, Tình yêu thương đối với ba ngìn người ấy nay trút cả vào mình nàng Nơi nhà vàng, trang hoàng xong, là chỗ của những đêm hầu hạ nũng nịu Tiệc lầu ngọc, tan rồi là buổi say sưa với cả chiều xuân êm ái! Chị em, anh em đều đước cắt đất phong quan Thương thay! Một mình làm vẻ vang cho cả nhà cả họ!! Khiến cho lòng những người làm cha mẹ trong thiên hạ Quý sinh con gái hơn sinh trai Cung điện trên núi Ly Sơn (4)cao vút mây xanh Khúc nhạc tiên theo gió đưa đi, nơi nơi nghe tiếng Giọng ca trầm trầm, điệu múa khoan hòa với tiếng đàn tiếng sáo Suốt ngày vua xem không xuể Tiếng trống trận Ngư Dương (5) bỗng dậy đất kéo đến Làm cho điệu múa " Nghê thường vũ y " (6) tan tác kinh hoàng Chín lần thành khuyết, khói bụi mịt mù Ngìn cỗ xe, muôn cỗ ngựa chạy về tây nam Tàn thắm, cờ hoa ngả nghiêng dùng dằng Đi ra phía tây, khỏi cổng thành được hơn trăm dặm Bỗng sáu quân không chịu tiến, tình thế khó xong Gái mày ngày phải quằn quại chết trước đầu ngựa Bông hoa vàng, cành thúy kiều, hình kim tước và trâm ngọc cài đầu Rơi rắc trên mặt đất chẳng còn ai nhặt Cứu không nổi, vua đành bưng mặt Khi nhìn lại , máu pha nước mắt đã chảy ròng ròng Bụi vàng tản mát bay, gió hiu hắt thổi Những đợt thang mây vẫn uốn khúc cheo leo tren núi Kiếm Các Dưới chân núi Nga My ( ở tỉnh Tứ Xuyên ngày nay) thưa thớt người đi Bóng cờ ủ rũ, ánh mặt trời bạc phếch Sông đất Thục ( nay là tỉnh Tứ Xuyên) biếc, núi đất Thục xanh Tình vua nhớ nhung hết sớm lại chiều Ánh trăng nơi hành cung, trông những đau lòng Tiếng kiểng lúc đêm mưa, nghe càng đứt ruột Trời xoay đất chuyển, xe rồng ( xe của vua) lại trở về Tới đó ( chỉ bãi Mã Ngôi, nơi Dương Quí Phi chết ) dùng dằng không nỡ dời chân Trong đống đất bùn, trên bãi Mã Ngôi Mặt ngọc nào thấy đâu, còn trơ chỗ thác uổng! Vua tôi nhìn nhau, ai nấy lệ rơi thấm áo Hướng về phương đông, phía cổng thành mặc cho vó ngựa quen đường lững thững bước về Tới nơi, ao vườn vẫn nguyên như cũ Sen hồ Thái Dịch, liễu cung Vị Ương, Thấy hoa sen, nhớ đến mặt nàng, thấy lá liễu, nhớ lông mày nàng Trước cảnh ấy, cầm sao được giọt lệ ! Những buổi gió xuân, đào lý nở hoa Những lúc mưa thu, ngô đồng rụng lá Đền Tây cung (7) điện Nam Nội (8) cỏ thu mọc đầy Lá rụng tơi bời, đỏ thềm không ai quét Bọn con em nơi lê viên tóc đà nhuốm bạc Lũ thái giám, thị tỳ chốn Tiêu Phòng cũng đã già rồi Trước điện, buổi tối, cái đóm bay, cảnh tình lặng ngắt Ngọn đèn vò võ khêu đã hết bấc, giấc mộng vẫn chưa thành Tiếng trống cầm canh chầm chậm của đêm mới bắt đầu dài Ánh sao lấp lánh trên sông Ngân lúc trời sắp sáng Lớp sương nặng phủ trên mái ngói uyên ương (10) giá ngắt Tấm chăn cánh trả, lạnh như tiền, chung đắp cùng ai ? Kẻ khuất người còn xa nhau đã hơn năm trời đằng đẵng Hồn phách chưa từng gặp nhau trong giấc chiêm bao Một đạo sĩ ở Lâm Cùng (11) , đến chơi Hồng đô (12 ) Có phép thuật tinh thành gọi được hồn phách người chết Vì cảm nỗi lòng vua nhớ nhung trằn trọc Mới sai phương sĩ ( đạo sĩ) hết lòng tìm kiếm : Xé tầng mây, cưỡi làn gió, đi nhanh như chớp Lên trời, xuống đất, tìm khắp mọi nơi Trên từ mây biếc, dưới đến suối vàng Cả hai nơi đều mênh mang không thấy Chợt nghe ở ngoài bể cổ có ngọn núi tiên Núi rập rờn trong khoảng hư vô huyền ảo Lầu gác lộng lẫy, năm thức mây lồng Có bao nàng tiên thướt tha yểu điệu Trong đó, một nàng tên gọi Thái Chân Da tuyết, mặt hoa na ná giống Gõ cửa ngọc mái tây nơi kim khuyết Nhờ Tiểu Ngọc, truyền bảo đến Song Thành ( tên hai tiên nữ) Nghe có sứ vua Hán tới Trong màn cửa hoa giật mình tỉnh giấc Khép áo, đẩy gối, bồi hồi trở dậy Cánh rèm châu, bức mành bạc từ từ mở ra Bối tóc mây hơi lệch, vẻ còn ngái ngủ Mũ hoa đội chưa ngay, vội bước xuống thềm Gió thổi, vạt áo nhẹ nhẹ bay Hệt như lúc đang múa khúc " Nghê Thường Y Vũ " Vẻ ngọc âm thầm, vắn dài hàng lệ, Một cành hoa lệ đẫm hạt mưa xuân Đăm đăm khoé mắt, nghẹn ngào " Đa tạ lòng quân vương" "Một lần từ biệt đôi ngả cách mặt khuất lời "Tình ân ái ở Chiêu Dương thế là đoạn tuyệt "Ngày tháng trong cung Bồng Lai dài đằng đẵng "Ngoảnh mặt nhìn xuống cõi đời "Không ktháy Trường An, chỉ thấy bụi trần mù mịt "Nay xin mượn vật cũ để tỏ chút tình thâm "Chiếc hộp khảm, cành kim thoa, gửi mang về giúp "Thoa để lại một nhành, hộp để lại một mảnh Thoa bẻ nhánh vàng , hộp chia mảnh khảm Chỉ nguyệt tấm lòng bền như vàng như khảm "Kẻ trên đời, người trần thế sẽ còn gặp nhau! Lúc sắp từ biệt còn ân cần nhắc gửi mấy lời Trong đó có lời thề riêng, chỉ hai tấm lòng được biết Đó là đêm mồng bảy tháng bày, tại điện Trường Sinh ( một điện trong cung Hoa Thanh đời Đường) Nửa đêm , người vắng, thề riêng với nhau: "Ở trên trời nguyện làm chim liền cánh, "Ở dưới đất nguyện làm cây liền cành " Trời đất dài lâu cũng có lúc hết Hận này đằng dặc, không thủa nào cùng !
Chú thích : (1) Vua Hán : chỉ Đường Minh Hoàng (2) Sáu cung: chỉ những nơi vợ vua ở (3) Hồ Hoa Thanh: Một hồ trên núi Ly Sơn, có suối nước ấm . Đường Minh Hoàng sai xây cung điện ở đấy làm nơi nghỉ, chơi (4)Núi Ly Sơn : tức núi Ly Nhung, ở tỉnh Thiểm Tây ngày nay (5)Ngư Dương : nơi An Lộc Sơn trấn thủ, thuộc tỉnh Hà Bắc ngày nay (6) Nghê Thường y vũ : Một điệu múa gốc từ Ấn Độ, truyền sang Trung Quốc, Đường Minh Hoàng sửa đổi lại thành một điệu ca vũ trong hoàng cung (7) Đền Tây Cung , (8) điện Nam nội : tên hai cung, Đường Minh Hoàng sau khi chạy loạn trở về truyền ngôi cho con, làm thái thượng hoàng và lần lượt ở hai cung này (9) Tiêu Phòng : tên một điện trong cung Vỵ Ương đời Hán, nơi vợ vua ở (10) Ngói uyên ương : Thụy Văn Đế nằm mơ thấy hai phiến ngói rơi xuống đất, hóa đôi uyên ương, về sau người ta gọi thứ ngói cứ ghép thành hai phiến một để lợp nhà là ngói uyên ương . (11) Lâm Cùng :nay là huyện Cùng Lai, tỉnh Tứ Xuyên (12) Hồng Đô :Nguyên là cửa một cung điện đời Hán ; nay dùng để chỉ nơi kinh đô
Dịch Thơ Trường Hận Ca
Đức vua Hán mến người khuynh quốc Trải bao năm tìm chuốc công tai Nhà Dương có gái mới choai Buồn xuân khóa kín chưa ai bạn cùng Lạ gì của tuyết đông ngọc đúc Chốn ngai vàng phút chốc ngồi bên Một cười trăm vẻ thiên nhiên Sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son Trời xuân lạnh suối tuôn mạch ấm Da mỡ đông kỳ tắm ao Hoa Vua yêu bận ấy mới là Con hầu nâng dậy coi đà mệt thay Vàng nhẹ bước lung lay tóc mái Màn phù dung êm ái đêm xuân Đêm xuân vắn vủn có ngần Ngai rồng từ đấy chậm phần vua ra Suốt ngày tháng tiệc hoa vui mãi Đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm Ba ngìn xinh đẹp chị em Ba ngìn yêu quí chất nêm một mình Nhà vàng đúc, đêm thanh ấm áp Lầu ngọc cao, say ắp mầu xuân Anh em sướng đủ mọi phần Mà cho thiên hạ có lần rẻ trai Vẳng tiên nhạc khắp nơi nghe biết Làn gió đưa cao tít Ly cung Suốt ngày múa hát thung dung Tiếng tơ, tiếng trúc say lòng quân vương Ầm tiếng trống Ngư Dương kéo đến Khúc Nghê Thường tan biến như không Chín lần thành khuyết bị tung Nghìn xe, muôn ngựa qua vùng Tây Nam Đi lại đứng hơn trăm dậm đất Cờ thúy hoa bóng phất lung lay Sáu quân rúng rắng làm rầy Mày ngài trước ngựa lúc này thương ôi! Ai người nhặt thoa rơi bỏ đất Ôi! Thúy Kiều ngọc nát vàng phai Quân vương bưng mặt cho rồi Quay đầu trông lại, máu trôi lệ dàn Gió tung bụi mê man tản mác Đường thang mây Kiếm Các lần đi Vắng tanh, dưới núi Nga My Mặt trời nhạt thếch , tinh kỳ buồn tênh Đát Ba Thục non xanh nước biếc Lòng vua cha thương tiếc hôm mai Thấy trăng luống những đau người Đêm mưa đứt ruột, canh dài tiếng chuông Phút trời đất quay cuồng vận số Bánh xe rồng đến chỗ ngày xưa Đất bùn chỗ chết còn trơ Thấy đâu mặt ngọc ! Bây giờ Mã Ngôi! Đầm vạt áo, vua tôi giọt lệ Gióng dây cương, ngựa tế về đông Cảnh xua dương liễu, phù dung Vị Ương, Thái Dịch hồ cung vẹn mười Phù dung đó, mặt ai đâu tá ? Mày liễu đâu ? Cho lá còn như Càng trông hoa liễu năm xưa Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm Xuân đào lý gió đêm huê nở Thu khi mưa rụng lá ngô đồng Kìa Nam Uyển, nọ Tây Cung Đầy thềm ai quét lá hồng thu rơi ? Vườn lê cũ những ai con hát ? Mái tóc coi trắng phớt lạ lùng Những ai coi giữ tiêu phòng ? Mày xanh thuở ấy nay cùng già nhăn Trước cung điện nhìn sân đêm tối Đom đóm bay gợi mối u sầu Ngọn đền khêu đã cạn dầu Khó thay, giấc ngủ dễ hầu ngủ xong ! Tiếng canh tối tùng tùng điểm trống Năm canh dài chẳng giống đêm xưa Sông Ngân lấp lánh sao thưa Trời như muốn sáng, sao chưa sáng trời ? Tren mái ngói sương rơi ướt lạnh Trong chăn nằm bên cạnh nào ai ? Cách năm sống thác đôi nơi Thấy đâu hồn phách vãng lai giấc nồng ? Khách đạo sĩ Lâm Cùng có gã Chơi Hồng Đô phép lạ thần thông Xót vì vua chúa nhớ nhung Mới sai phương sĩ hết lòng ra tay Cưỡi luồng gió như bay như biến Tren trời xanh, dưới đến đất đen Hai nơi bích lạc, hoàng tuyền Dưới tren tìm khắp mơ huyền thấy chi ! Sực nghe nói tìm đi mé bể, Có non tiên ngoài phía hư không Rỡ ràng cugn điện linh lung Xa trông năm sắc mây lồng đẹp sao! Trong tha thướt biết bao tiên tử Một nàng tiên tên chữ Ngọc Chân Mặt hoa da tuyết trắng ngần Dáng như người ấy có phần phải chăng ? Mái tây gõ cửa vàng then ngọc Cậy đưa tin Tiểu Ngọc, Song Thành Nghe tin sứ giả Hán Đình Cửa hoa trong trướng giật mình giấc mơ Cầm áo dậy, thẩn thơ buồn bực, Mở rèm châu, bình bạc lần ra Bâng khoâng nửa mái mây tà Thềm cao xuống chiếc mũ hoa lệch đầu Phớt tay áo bay màu ngọn gió Giống Nghê Thường khúc múa năm xưa Lệ dàn mặt ngọc lưa thưa Cành lê hoa trĩu hạt mưa xuân đầm Ngừng nước mắt âm thầm buồn bã Đội ơn lòng, xin tạ quân vương Từ ngày cách trở đôi phương Vắng tanh tăm tiếng, mơ màng hình dong Nơi đế điện dứt vòng ân ái Chốn tiên cugn thư thái hàng ngày Cõi trần ngoảnh lại mà hay Tràng An chẳng thấy, thấy đầy bụi nhơ! Lấy chi tỏ tình xưa thăm thú ? Gửi cành hoa vật cũ cầm xuôi Thoa vàng hộp khảm phân đôi Nửa xin để lại nửa thời đem đi Chỉ xin nguyện lòng ghi dạ tạc Tựa hoa vàng bền chắc không phai Thời cho cách trở đôi nơi Nhân gian rồi với trên trời gặp nhau Ân cần dặn mấy câu lâm biệt Lời thề xưa lòng biết với lòng Là đêm trùng thất ngồi chung Trường Sinh sẵn điện vắng không bóng người Xin kết nguyện chim trời liền cánh Xin làm cây cành nhánh liền nhau Thấm chi trời đất dài lâu Giận này dặc dặc dễ hầu có nguôi ...
Nguyên Hòa thập niên, dư tả thiên Cửu Giang quận Tư mã, minh niên thu tống khách Bồn hồ khẩu, văn chu trung dạ đầu tỳ bà giả, thính kỳ âm tranh tranh thiên, hữu kinh đô thanh. Vấn kỳ nhân, bản Trường An xướng nữ, thường học tì bà vu Mục, Tào nhị thiện tài. Niên trưởng sắc suy, uỷ thân vi cổ nhân phu. Toại mệnh tửu, sử khoái đàn sổ khuc khúc bãi, mẫn nhiên tự tự thiếu tiểu thời hoan lạc sự, kim phiêu luân tiều tụy, chuyển tỉ vu giang hồ gian. Dư xuất quan nhị niên, điềm nhiên tự an, cảm từ nhân ngôn, thị tịch thỉ giác hữu thiên trích ý, tự vi trường cú ca dĩ tặng chi, phàm lục bách nhị thập ngôn, mệnh viết Tỳ bà hành.
Tầm dương giang đầu dạ tống khách Phong diệp dịch hoa thu sắt sắt Chủ nhân há mã khách tại thuyền Cử tửu dục ẩm vô quản huyền Túy bất thành hoan, thảm tương biệt Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh Chủ nhân vong qui, khách bất phát Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy ? Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì Di thuyền tương cận yêu tương kiến Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai Do bão tỳ bà bán già diện Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh Vị thành khúc điệu, tiên hữu tình Huyền huyền yểm ức, thanh thanh tứ Tự tố bình sinh bất đắc chí Đê mi tín thủ tục tục đàn Thuyết tận tâm trung vô hạn sự Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu Sơ vi " Nghê thường", hậu "Lục yêu" Đại huyền tào tào như cấp vũ Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ Tao tao thiết thiết thác tạp đàn Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt U yết tuyền lưu thủy hạ than Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt Ngưng tuyệt bất thông thanh tạm yết Biệt hữu u sầu ám hận sinh Thử thời vô thanh thắng hữu thanh Ngân bình sạ phá thủy tương bỉnh Thiết kỵ đột xuất đao thương minh Khúc chung thu bát đương tâm hoạch Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung Tự ngôn: " Bản thị kinh thành nữ "Gia tại Hà mô lăng hạ trú "Thập tam học đắc tỳ bà thành "Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ "Khúc bãi tằng giao Thiện tài phục "Trang thành mỗi bị Thu nương đố "Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu "Nhất khúc hồng tiêu bất tri số "Điền đầu ngân tì kích tiết toái "Huyết sắc la quần phiên tửu ố "Kim niên hoan tiếu phục minh niên "Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ "Đệ tẩu tòng quân, a di tử "Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố "Môn tiền lãnh lạc xa mã hi "Lão đại giá tác thương nhân phụ "Thương nhân trọng lợi, khinh biệt ly "Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ "Khứ lại giang khẩu thủ không thuyền "Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thủy hàn "Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự "Mộng đề trang lệ hồng lan can " Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức Hựu văn thử ngữ trùng tức tức Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân Tương phùng hà tất tằng tương thức "Ngã tòng khứ niên từ đế kinh "Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành "Tầm Dương địa tịch vô âm nhạc "Chung tuế bất văn ty trúc thanh "Trú cận Bồn Giang địa đê thấp "Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh "Kỳ gian đán mộ văn hà vật "Đỗ quyên đề huyết viên ai minh "Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ "Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh "Khởi vô sơn ca dữ thôn địch "Ẩu á trào triết nan vi thính "Kim dạ văn quân Tỳ bà ngữ "Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh "Mạc từ cánh tọa đàn nhất khúc "Vị quân phiên tác tỳ bà hành" Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập Khước tọa xúc huyền huyền chuyển cấp Thê thê bất tự hướng tiền thanh Mãn tọa trùng văn giai yểm khấp Tọa trung khấp hạ thùy tối đa? Giang châu tư mã thanh sam thấp!
Dịch Nghĩa
Bến Tầm Dương(1) ban đêm tiễn khách Lá phong, hoa lau hơi thu xào xạc Chủ nhân xuống ngựa, khách ở trong thuyền Nâng chén định uống trong cảnh không đàn, không sáo (Nhưng) say mà không thành cuộc vui, lại buồn sắp phải từ biệt Lúc từ biệt trăng dầm trong lòng sông mênh mang Chợt nghe có tiếng tỳ bà văng vẳng trên mặt nước Chủ nhân quên về, khách không rời bến Lần đến nơi có tiếng đàn sẽ hỏi: "ai đàn tá?" Tiếng đàn ngừng lại, ý muốn thưa, nhưng lại tần ngần Dời thuyền đến gần, mời cho được gặp mặt Rót thêm rượu, giong lại đèn, tiệc vui mở tiếp Hết lời mời mọc mới chịu bước ra Còn ôm cây tỳ bà che khuất nửa mặt Vặn trục lên dây, dạo qua đôi ba tiếng Tuy chưa thành khúc điệu nhưng nghe đã có tình Mỗi dây ngân lên là những lời ấm ức, mỗi tiếng thoát ra bao nhiêu tình tứ Nhường như kẻ hết nỗi bất bình trong đời mình Nhẹ cúi đôi mày, thuận tay đều đều gẩy Nỗi niềm tâm sự, giãi hết nguồn cơn Nắn nhe, bắt khoan vê rồi lại dạo Hết khúa Nghê Thường(2) đến khúc Lục Yêu(3) Dây to rào rạt như mưa sầm sập tới dây nhỏ tỉ tê như kể lể niềm riêng Rào rạt, tỉ tê, gẩy xen thành nhịp Như bao hạt châu lớn nhỏ rắc xuống mâm ngọc Ca oanh trơn giọng, líu lo trong hoa Nhịp suối ngập ngừng, nước dội xuống thác Suối bỗng rét đọng lại, dây đàn ngừng bặt Dây ngừng bặt, tiếng tạm im Lại hiện ra vẻ sầu hận thầm kín khác Lúc này lặng lẽ lại tình tứ hơn lúc có tiếng đàn Bỗng như bình bạc vỡ tan, nước tuôn tung tóe Đoàn thiết kỵ xung đột, gươm đao đang gầm Khúc vừa xong, giữa mặt đàn, phẩy một nhát mạnh Cả bốn dây như một tiếng xé lụa vang lên Thuyền mảng đông tây, im lặng phăng phắt Chỉ thấy vầng trăng thu trắng xóa giữa dòng sông Lặng lẽ gài chiếc que gẩy vào dây đàn Xốc áo khép nép đứng dậy Kể lể: " Em vốn là người kinh thành Nhà ở dưới làng Hà Mô Mười ba tuổi đã học thạo ngón tì bà Tên đứng vào hàng nhất trong phường hát Sau mỗi khúc đàn, thường bọn thiện tài phải phục Trang điểm xong từng bị ả Thu phát ghen Bọn thiếu niên ở Ngũ Lăng tranh nhau tặng thưởng Một khúc đàn, điếm không xuể những tấm lụa đào Vành lược bạc, cành hoa vàng gãy tan nhịp gõ Bức quần rượu hồng, hoen ố những vết rượu rơi Cuộc truy hoan qua năm này sang năm khác Trăng thu trong, gió xuân mát, thờ ơ trôi qua Bỗng đứa em trai phải tòng quân, dì lại chết Sớm lại, chiều qua, nhan sắc kém sút Trước cửa vắng tanh, xe ngựa thưa Trở về già gá nghĩa cùng một người lái buôn Người lái buôn chỉ tham lợi, coi thường biệt ly Bỏ đi Phù Lương buôn chè từ tháng trước Từ đấy, một mình với chiếc thuyền không Trăng rọi quanh thuyền, nước sông lạnh ngắt Đêm khuya bỗng mơ lại cuộc đời lúc tuổi xuân Lệ hồng trong mơ ngổn ngang trên má phấn " Ta nghe tiếng tỳ bà đã ngậm ngùi thay Lại nghe câu chuyện càng thêm nức nở: " Cùng là khách lưu lạc nơi chân trời Gặp nhau đây, cừ gì phải là quen biết sẵn? Ta từ năm ngoái từ giã kinh đô(4) Bị giáng trích ốm nằm ở thành Tầm Dương Tầm Dương là nơi hẻo lánh, làm gì có âm nhạc Suốt năm không hề được nghe tiếng sáo, tiếng đàn Nhà lại ở gần sông Bồn, nơi ẩm trũng Lau úm, trúc gầy mọc quanh nhà Ở đấy nghe thấy gì lúa sớm tối? Quyên kêu khắc khoải, vượn hót nỉ non Trước những cảnh sông xuân hoa sớm, đêm thu trăng tròn Thường thường chỉ một mình dốc chén Há phải không có tiếng hát núi, tiếng sáo đồng Khốn nỗi líu lo, líu lường, nghe thêm khó chịu Đêm nay mới được nghe tiếng tỳ bà của nàng Chẳng khác được nghe nhạc tiên, tai bỗng khoan khoái Hãy vui lòng ngồi lại đàn chơi khúc nữa Ta sẽ vì nàng chuyển thành một thiên Tỳ Bà Hành! Cảm lời ta nàng tần ngân đứng lặng Rồi ngồi xuống lên dây, tiếng dây nhộn nhịp Rầu rầu khác hẳn tiếng đàn vừa qua Khiến cả đám tiệc đều bưng mặc khóc Trong đó ai khóc nhiều hơn? Quan Tư mã Giang Châu vạt áo xanh ướt đẫm
Chú thích: (1)Tầm Dương: Khúc sông Trường Giang chảy qua tỉnh Giang Tây, thị trấn Cửu Giang (2)Nghê Thường: tức là khúc "Nghê thường vũ y" (3)Lục Yêu: tên một khúc nhạc (4)Tháng mười năm Nguyên Hòa thứ 10(815) Bạch Cư Dị bị đổi ra làm tư mã ở Giang Châu
Dịch Thơ Lời tựa
Năm Nguyên Hoà thứ 10, ta về giữ chức Tư Mã ở quận Cửu Giang. Qua mùa thu năm sau, đêm ra tiễn khách bên bến sông Bồn, chợt nghe thuyền ai có tiếng đàn Tỳ bà vọng lại. Nghe trong tiến đàn thánh thót, âm vang điệu nhạc ở kinh đô. Bèn hỏi gốc gác. Người đàn bà trả lời rằng " Tôi vốn là con hát, quê ở Trường An, học đàn Tỳ Bà với hai danh sư Mục va Tào. Nay tuổi đã cao, nhan sắc tàn tạ, lấy chồng làm con buôn(thường theo thuyền buôn đi đây đi đó)". Nghe vậy, cho dọn rượu ra đãi, xin nàng đàn lại cho nghe. Đàn xong cảm xúc vô vàn, nàng bèn kể lại cuộc đời mình từ lúc còn trẻ, vui sướng, cho tới lúc lưu lạc giang hồ khổ nhọc. Ta về đây làm quan đã được hai năm thanh thản yên ổn. Hôm nay nghe nàng nầy nói chuyện, cảm thương cho số phận lưu đầy! Bèn làm một bài thơ dài tặng nàng ta, gồm 616 lời, gọi là Tỳ Bà Hành.
Tỳ Bà Hành
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu Người xuống ngựa, khách dừng chèo Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty Say những luống ngại khi chia rẽ Nước mênh mông đượm vẻ gương trong Đàn ai nghe vẳng bên sông Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá ? Dừng dây tơ nấn nà làm thinh Đời thuyền ghé lại thăm tình Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ Tay ôm đàn che nửa mặt hoa Vặn đàn mấy tiếng dạo qua Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng hay Nghe não ruột mấy dây buồn bực Dường than niềm tấm tức bấy lâu Mày chau tay gẩy khúc sầu Giải bày hết nỗi trước sau muôn vàn Ngón buông, bắt khoan khoan dìu dặt Trước Nghê Thường, sau thoắt Lục Yêu Dây to nhường đổ mưa rào Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy Mâm ngọc đâu bỗng nẩy hạt châu Trong hoa oanh ríu rít nhau Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt Ngừng đứt nên phút bật tiếng tơ Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao Cung đàn trọn khúc thanh tao Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt Một vầng trăng trong vắt lòng sông Ngậm ngùi đàn bát xếp xong Áo xiêm khép nép hầu mong giãi lời Rằng "xưa vốn là người kẻ chợ Cồn Hà Mô trú ở lân la Học đàn từ thuở mười ba Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên Gã Thiện tài sợ phen dừng khúc Ả Thu nương ghen lúc điểm tô Ngũ Lăng chàng trẻ ganh đua Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn Vành lược bạc gãy tan nhịp gõ Bức quần hồng hoen ố rượu oi Năm năm lần lữa vui cười Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu Buồn em trảy lại lo dì thác Sầu hôm mai đổi khác hình dung Cửa ngoài xe ngựa vắng không Thân già mới kết duyên cùng khách thương Khách trọng lợi, khinh đường ly cách Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi Thuyền không, đậu bến mặc ai Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng Đêm khua, sực nhớ vòng tuổi trẻ Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen Nghe đàn ta đã chạnh buồn Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời Cùng một lứa bên trời lận đận Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau Từ xa Kinh khuyết bấy lâu Tầm dương đất trích gối sầu hôm mai Chốn cùng tịch lấy ai vui thích Tai chẳng nghe đàn địch cả năm Sông Bồn gần chốn cát lầm Lau vàng, trúc võ, âm thầm quanh hiên Tiếng chi đó nghe liền sớm tối Cuốc kêu sầu, vượn hót véo von Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng Há chẳng có ca rừng, địch nội ? Giọng líu lo, buồn nỗi khó nghe Tỳ bà nghe dạo canh khuya Dường như tiên nhạc gần kề bên tai Hãy ngồi lại gẩy chơi khúc nữa Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca " Đứng lâu dường cảm lời ta Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây Nghe não ruột khác tay đàn trước Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi Lệ ai chan chứa hơn người ? Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh
Thuỳ gia tư phụ thu đảo bạch Nguyệt khổ phong thê châm thử bi Bát nguyệt cửu nguyệt chính trường dạ Thiên thanh vạn thanh vô liễu thì Ưng đáo thiên minh đầu tân bạch Nhất thanh thiêm đắc nhất hành ti.
Dịch Thơ
Thu đến nhớ chồng ai đập lụa Gió trăng não lắm đá chày ơi Tháng tám tháng chín đêm dài bấy Ngàn tiếng muôn tiếng không hề nguôi Mỗi tiếng trắng thêm tơ một sợi Sáng ra e bạc cả đầu ai.
Chủng lan bất chủng ngãi Lan sinh ngãi diệc sinh Căn cai tương giao trưởng Hành diệp tương phụ vinh Hương hành dữ xú diệp Nhật dạ câu trưởng đại Sừ ngãi khủng thương lan Khái lan chủng tư ngãi Lan diệc vị năng khái Ngãi diệc vị năng trừ Trầm ngâm ý bất quyết Vấn quân: "hợp hà như ?"
Dịch Nghĩa Hỏi bạn
Trồng lan chứ không trồng ngãi Thế mà lan mọc,ngãi cũng mọc Rễ và mầm bám nhau lớn lên Giò và lá tựa vào nhau tươi tốt Giò thơm cùng lá hôi Ngày đêm đều nảy nở Dẫy ngãi đi thì sợ lan chột Tưới cho lan thì sợ ngãi tốt Thế rồi lan cũng chưa tưới được Mà ngãi cũng chưa dẫy đi Ngẫm nghĩ hoài không thể quyết định Hỏi bạn: "Nên làm thế nào cho phải ?"
Dịch Thơ Trồng lan chẳng trồng ngãi Lan lên,ngãi cũng lên Rễ mầm chằng chịt lớn Giò lá tốt tươi chen Giò thơm lẫn lá hôi Cùng lớn từng ngày một Dẫy lan sợ ngãi hư Tưới lan e ngãi tốt Lan kia chưa thể tưới Ngãi nọ cũng khôn đào Ngẫm nghĩ phân vân mãi Hỏi anh: "Phải thế nào ?"
Thời nạn niên hoang, thế nghiệp không, Đệ huynh ky lữ các tây đông. Điền viên liêu lạc can qua hậu Cốt nhục lưu ly đạo lộ trung. Điếu ảnh phân vi thiên lý nhạn, Từ căn tán tác cửu thu bồng. Công khan minh nguyệt ưng thùy lệ, Nhất dạ hương tâm ngũ xứ đồng
Dịch Thơ Cảm Xúc Khi Ngắm Trăng
Giặc, đói tràn lan, sản nghiệp không, Anh em trôi giạt nẻo tây đông. Ruộng vườn xơ xác sau cơn loạn, Ruột thịt lìa tan giữa chặng đường. Nghìn dặm lạc đàn thương bóng nhạn, Chín thu lìa gốc thảm thân bồng. Nằm nơi lặng ngẩng nhìn trăng sáng, Một khối tình quê, lệ mấy dòng!