VỀ VĂN BẢN & HƯỚNG KHAI THÁC BÀI THƠ
BẢO KÍNH CẢNH GIỚI SỐ 43 CỦA NGUYỄN TRÃI
------------
Rồi hóng mát , thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn, tán rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương .
(Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, H.1976, tr 453
1. Trong chương trình Ngữ văn lớp 10, Nguyễn Trãi là một trong những tác giả trọng tâm. Ngoài phần giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả, học sinh còn được học hai tác phẩm. Đó là Bài cáo bình Ngô và Bảo kính cảnh giới số 43. Đây là những tác phẩm đã hiện diện trong chương trình ngữ văn THPT từ hàng chục năm nay. Tuy nhiên, cách hiểu và hướng khai thác các tác phẩm đến nay vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất. sự thất lạc văn bản, sự biến âm, biến nghĩa của các văn bản chữ Nôm, chữ Hán có thể xem là những nguyên nhân trực tiếp.Vì lẽ đó, khôi phục lại văn bản, đi tìm một cách hiểu đúng dựa trên một cái nhìn nhất quán của thi pháp học là việc làm có ý nghĩa. Nó giúp ta không chỉ hiểu đúng một câu thơ, một bài thơ mà còn góp phần hiểu đúng hơn con người và tư tưởng của ông. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được trao đổi thêm một số vấn đề về bài thơ Bảo kính cảnh giới số 43.
2. Sách giáo viên Văn 10 (chỉnh lý hợp nhất năm 2000), phần văn học Việt Nam, ở phần hướng dẫn giảng bài Bảo kính cảnh giới số 43 của Nguyễn Trãi, được bắt đầu bằng việc khẳng định tâm thế "mở lòng ra đón nhận cảnh vật"của nhà thơ"đón trong lúc rồi (rỗi rãi), trong lúc dạo chơi hóng mát, nghĩa là trong lúc sống nhàn nhã mà tâm hồn cũng thảnh thơi…"2. Từ cách hiểu đó, soạn giả viết: "Thi nhân đã đón nhận cảnh vật bằng thị giác, thính giác, khứu giác và cả bằng ấn tượng, tưởng tượng nữa. Trong cảnh có sắc (xanh, đỏ, hồng), có ánh sáng (chiều tà), có âm thanh (cầm ve). Nói chung là cảnh vật có sức sống, đang cựa quậy, đang vươn tới, trông vui mắt…" và nữa, "từ niềm vui đó lại còn dậy lên một ước mong cũng thật cao đẹp, cũng thật nghệ sĩ: ước mong có được tiếng đàn của vua Thuấn ngày trước để ca ngợi cuộc sống hôm nay"3. Cùng cách nhìn đó, nhưng có phần chi tiết hơn, Lã Nhâm Thìn trong cuốn Giảng văn văn học Việt nam cũng cho rằng, "Thời gian rảnh rỗi, tâm hồn thư thái, thanh thản, khí trời mát mẻ, trong lành…Một ngày như thế trong đời Nguyễn Trãi đâu nhiều. Ông là người thân không nhàn mà tâm cũng không nhàn.Một phút thanh nhàn trong thuở ấy với Nguyễn Trãi thật đáng quý biết bao. Quả hiếm hoi mới có một hoàn cảnh lý tưởng đến thế - cả khách quan và chủ quan - để làm thơ, để yêu say cái đẹp"4 Từ cách hiểu ấy, tác giả phát triển thêm: "Ở đây ông có được cả một ngày trường để thưởng thức thiên nhiên với một tâm trạng lâng lâng, sảng khoái. Ức Trai giành cho mình một cái quyền Rồi hóng mát thuở ngày trường , bởi niềm mơ ước, nỗi trăn trở dày vò, mục đích lớn nhất của đời ông đã được thực hiện: dân ấm no, hạnh phúc". Qua nhiều lần thay đổi sách giáo khoa, gần đây bài Bảo kính cảnh giới số 43 của Nguyễn Trãi lại được chọn đưa vào phần đọc văn Ngữ văn 10 của hệ chương trình chuẩn (Phan Trọng Luận chủ biên) và hệ nâng cao (Trần Đình Sử chủ biên). So với sách giáo khoa ngữ văn trước đây, nhan đề bài thơ đã được đổi thành Cảnh ngày hè. Ngoài ra, ở câu 4 "Hồng liên trì đã tịn mùi hương" được đổi thành"Hồng liên trì đã tiễn mùi hương". Dù văn bản bài thơ đã có sự thay đổi, song định hướng khai thác về cơ bản không có gì thay đổi.
3. Dù đã có những khác biệt trong cách khai thác chi tiết, nhưng về cơ bản, các soạn giả đều thống nhất khi cho rằng, chủ thể trữ tình xuất hiện trước thiên nhiên trong thời gian rảnh rỗi với một tâm trạng ung dung, thảnh thơi trong ngày hè. Từ đó, các soạn giả đã đi sâu khai thác ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên đầy sáng tạo của Nguyễn Trãi, và xem đó là một biểu hiện của sự cảm nhận tinh tế vẻ đẹp thiên nhiên của nhà thơ. Đây là một cách tiếp cận có ý nghĩa. Tuy nhiên, theo chúng tôi, nếu chỉ dừng lại ở đó thì quả là chưa đủ. Với tư cách là một "bản tự thuật tâm trạng" (G.N.Pospelop), thơ trữ tình trước hết và bao giờ cũng là sự thể hiện một khát vọng được bày tỏ, được giao cảm, được sẻ chia những nỗi niềm sâu kín của tâm hồn. Chính vì vậy, để hiểu một bài thơ trữ tình, việc chỉ ra những hình ảnh thơ độc đáo, những câu chữ cụ thể là cần thiết nhưng chưa phải là điều cơ bản. Cần phải thấy rằng, hồn cốt của một bài thơ là ở cái giọng điệu của nó. Dấu ấn tài năng, cá tính sáng tạo và những tiếng lòng sâu thẳm của thi nhân trước cuộc đời…đều được thể hiện qua giọng điệu bài thơ. Vì vậy, hiểu bài thơ trước hết phải nắm bắt được cái giọng điệu của nó. Về điều này, giáo sư Hoàng Ngọc Hiến trong cuốn Văn học và học văn đã viết: "Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài văn trước hết là ở cái giọng. Năng khiếu văn ở phần tinh tế nhất là năng lực bắt được trúng cái giọng của văn bản mình đọc và tạo ra được giọng đích đáng cho tác phẩm mình viết". Từ cách nhìn ấy, có thể thấy "chủ âm" trong giọng điều của bài thơ Bảo kính cảnh giới số 43 không phải là niềm vui rạo rực trước thiên nhiên trong cảnh ngày hè mà là một niềm thao thức lớn trong tâm hồn nhà thơ, một khát vọng cháy bỏng được khẳng định mình, được đem hết sức lực, tâm huyết của mình, cống hiến cho dân,
4. Có một thực tế là cho đến nay, trong nhiều cuốn sách, văn bản bài thơ vẫn chưa được thống nhất. Đối chiếu một số văn bản trong các sách Ngữ văn 10 và một số sách tham khảo những năm qua, chúng tôi nhận thấy có sự không thống nhất về chữ mở đầu bài thơ. Các tài liệu như Nguyễn Trãi toàn tập5, sách giáo khoa Văn 10 do Nxb Giáo Dục xuất bản hằng năm và các tài liệu đã dẫn ở trên đều ghi là "Rồi hóng mát, thuở ngày trường". Trong khi đó, ở một số tài liệu khác như Quốc âm thi tập 6, Mấy vấn đề về phương pháp dạy thơ văn cổ Việt Nam7, Văn học 10 (Hội nghiên cứu giảng dạy thành phố Hồ Chí Minh) lại ghi là "Rỗi hóng mát thuở ngày trường".
Từ "rồi"là một từ cổ. "Rồi" cũng có nghĩa giống"rỗi"đều được hiểu là thời gian rỗi rãi. Tuy nhiên, chữ "rỗi" có vẻ hiện đại hơn so với chữ "rồi". Nhưng đó chưa phải là điều quan trọng. Vấn đề là ở chỗ, sự thay đổi về thanh điệu sẽ làm mất đi cái sắc màu cổ điển của câu thơ, phá vỡ cái giọng điệu rất riêng, chứa đầy thông điệp của bài thơ, một yếu tố quan trọng mà sự cộng hưởng, tương hợp của nó với những yếu tố khác trong câu thơ sẽ gợi mở nhiều điều thú vị về bài thơ. Từ cách hiểu đó, theo chúng tôi, từ rồi trong văn bản sách giáo khoa hiện nay là hợp lý. Cũng rơi vào trường hợp thiếu thống nhất về văn bản bài thơ là trường hợp chữ "tiễn" ở câu 4. Sách giáo khoa những năm trước đây được ghi là "tịn", còn sách giáo khoa hiện nay lại ghi là "tiễn". Nội dung chú giải về hai từ này hoàn toàn trái ngược nhau. "Tịn mùi hương" được chúlà "hết mùi hương". Trong khi đó, "tiễn mùi hương" được chúlà "toả hương ngào ngạt". Từ đó, hai câu "Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ/ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương" được hiểu là, "trong khi thạch lựu ở hiên còn đang tiếp tục phun màu đỏ, thì sen hồng trong ao đã ngát mùi hương". Sự thiếu nhất quán về văn bản và chú thích trong các sách giáo khoa và tài liệu tham khảo đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp nhận ý nghĩa bài thơ của giáo viên và học sinh. Nguyễn Ngọc San trong bài Thử bàn về vấn đề phiên Nôm 8 cho rằng, chữ "tịn" cũng là hình thức cổ của "tận". "Tịn" hay "tận" cũng đều có nghĩa như nhau. Theo ông, ở thế kỉ XV do chịu ảnh hưởng của cách đọc cũ nên "tịn" được viết thành "tiễn". Cách phiên âm giải nghĩa của Đào Duy Anh trong Nguyễn trãi toàn tập là chính xác khi ông cho rằng, "tịn" tức hết, cũng như "tận". Ở nông thôn Thanh Nghệ người ta còn nói tịn tức là hết. Đến tịn nơi chứ không nói tận.
Theo chúng tôi, cách hiểu của ông Nguyễn Ngọc San là hợp lý. Chữ "tiễn" ở đây phải được hiểu là "hết" chứ không thể hiểu là "tỏa ngát" được. Theo cách hiểu này, hai câu Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ/Hồng liên trì đã tiễnmùi hương là tả cảnh cuối mùa hạ chứ không phải là cảnh đương giữa mùa hạ. Theo lẽ thường, trong hoàn cảnh đó, cảnh vật thiên nhiên hiện ra trong con mắt nhà thơ sẽ không vui. Nhưng điều đáng nói ở đây là thiên nhiên vào thời điểm cuối hè trong con mắt nhà thơ vẫn tràn đầy sức sống. Tất cả dường như đều muốn trỗi dậy, muốn bộc lộ hết vẻ đẹp của mình. Cây hòe trước hiên cứ như đang "đùn đùn" mà lên, đùn đùn mà toả rộng; cây lựu như đang "phun" ra những tia màu đỏ chói, như muốn cháy hết mình một lần cuối để chuẩn bị bước sang thu; Hoa sen đã "tịn" mùi nhưng trong tri giác của nhà thơ vẫn ngát hương thơm (nói "không" là để nói "có ", nói đã "hết" nhưng trong tri giác của nhà thơ vẫn còn).
5. Bài Bảo kính cảnh giới số 43 của Nguyễn Trãi là một bài thơ có tính chất răn dạy, giáo huấn nhưng cũng là bài thơ trong chùm thơ nói về tâm trạng của nhà thơ trong cuộc sống nhàn dật. Đó là những bài thơ được sáng tác trong thời kỳ ông không còn được nhà vua tin dùng. Tâm trạng ông luôn chứa đầy mâu thuẫn. Một bên là lạc thú nhàn tản, một bên là nợ quân thần cần báo đáp. Vì vậy, dù sống trong cảnh ẩn dật, nhưng lòng nhà thơ vẫn không yên. Để hiểu đúng bài thơ, không thể không lưu ý đến điều này.
Bài thơ được mở đầu bằng một câu thơ với những tín hiệu đặc biệt: "Rồi hóng mát thuở ngày trường". Chữ "rồi" đứngđầu câu thơ tạo nên ý nghĩa nhấn mạnh thời gian rỗi rãi. Ý nghĩa đó lại được bổ sung, khắc đậm bởi ba chữ "thuở ngày trường" (Thuở- ngày- trường đều là những từ ngữ chỉ thời gian dài). Thêm vào đó, nhịp ngắt 1/5 khiến cho câu thơ có một giọng điệu riêng. Toàn bộ câu thơ gợi lên một ý nghĩa: thời gian trôi đi quá chậm! Xét về nghĩa tường minh, câu thơ diễn tả một trạng thái ung dung, thảnh thơi của Nguyễn Trãi trong ngày hè như nhiều người đã cảm nhận. Nhưng xét về nghĩa hàm ẩn, câu thơ không đưa đến một cảm giác thú vị nào trong việc ngồi "hóng mát". Cũng như cách Nguyễn Trãi ca ngợi thú nhàn trong bài Côn Sơn ca :
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Côn Sơn có đã rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm
Trong ghềnh thông mọc như nêm
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm
Trong rừng có bóng trúc râm
Dưới màu xanh ngát ta ngâm thơ nhàn.
(Bản dịch thơ chữ Hán Nguyễn Trãi )
Chữ "nhàn" (rỗi) vẫn thường đi về trong thơ Nguyễn Trãi, nhưng đó chỉ là cách nói. Ở Nguyễn Trãi, thân có thể nhàn, nhưng tâm không bao giờ nhàn. Câu thơ "Rồi hóng mát thuở ngày trường" hé mở một nỗi buồn, bức xúc trong tâm trạng thi nhân. Và nữa, trong cái nhìn của Nguyễn Trãi, hoa sen cuối hạ vẫn mang một vẻ đẹp riêng, một sức sống tiềm tàng. Ở một tầng nghĩa khác, ý niệm về thời gian cuối hè, và sự xuất hiện trong tri giác mùi hương của hoa sen lại ẩn chứa một nỗi niềm bâng khuâng thao thức của nhà thơ trước sự chuyển biến, tan phai dần của cái đẹp. Qua cách nhìn thiên nhiên đó, ta nhận rõ sự nhạy cảm, tinh tế đến mức tuyệt vời trước vẻ đẹp thiên nhiên của Nguyễn Trãi. Mặt khác, phẩm chất tinh thần mạnh mẽ trong tâm hồn nhà thơ phần nào được hé lộ. Đó là nỗi khao khát đến cháy bỏng được bộc lộ mình như những cây hoè, cây lựu, cây sen… Đây cũng là một phương thức trữ tình quen thuộc trong thơ Nguyễn Trãi mà ta đã từng bắt gặp ở bài Tùng . Ở đó, nhà thơ đã mượn hình ảnh cây tùng để gửi gắm nỗi khát khao của mình: Thu đến cây nào chẳng lạ lùng/Một mình lạt thuở ba đông… Cây tùng của Nguyễn Trãi cũng như những hình ảnh kia, không thể nhầm lẫn với "rừng tùng" nói chung trong văn học. Có thể nói, thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi mang một vẻ đẹp độc đáo vì nhà thơ đã hóa thân, hóa hồn vào trong đó.
Nếu như trung tâm chú ý của nhà thơ ở những câu đầu là màu sắc, hương thơm của cảnh vật thì ở những câu sau, nhà thơ lại hướng tới âm thanh - những âm thanh của niềm vui: tiếng lao xao chợ cá nơi đông người vàtiếng ngân vang của những "nhạc sĩ mùa hè". Những âm thanh đó hòa trộn vào nhau gợi hình ảnh một cuộc sống trù phú, thanh bình, yên ả của làng quê trong cảnh đất nước được giải phóng. Thế nhưng, lắng sâu trong những âm thanh đó, trong tiếng lao xao chợ cá từ xa vọng lại, tiếng cầm ve trong buổi chiều tà, dường như ẩn chứa một nỗi bâng khuâng thầm kín trong tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ. Và nỗi niềm của Nguyễn Trãi được bộc lộ trực tiếp trong hai câu kết: Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng Dân giàu đủ, khắp đòi phương.
Nguyễn Trãi khát khao có được cây đàn của vua Thuấn ngày trước để ca ngợi cuộc sống hôm nay. Câu thơ 6 chữ kết đọng điều tác giả hằng mong mỏi, tâm niệm suốt đời. Thì ra, trong cảnh nhàn nhà, Nguyễn Trãi trước sau vẫn là "Bui một tấc lòng ưu ái cũ/ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông". Thêm một lần nữa, ta hiểu cái "rồi hóng mát" ở câu mở đầu bài thơ chỉ là một cách nói. Tâm hồn ông không bao giờ ngơi nghỉ. Thân có nhàn nhưng tâm chẳng bao giờ nhàn. Khát vọng thường trực của ông là được đem tài năng, sức lực của mình cống hiện cho dân, cho nước.
6. Như chúng ta đã biết, trongQuốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Bảo kính cảnh giới số 43 (gương báu răn mình) thuộc loại thơ mang tính giáo huấn. Nhưng không phải bài nào cũng có nội dung giáo huấn trực tiếp. Bài số 43 là một bài như vậy. Ý nghĩa giáo huấn của bài thơ thể hiện một cách gián tiếp, xuyên thấm qua hình ảnh, giọng điệu bài thơ. Đọc bài thơ, ta không tìm thấy một lời răn dạy trực tiếp nào, chỉ thấy một tiếng lòng thiết tha, một khát vọng lớn muốn khẳng định mình, muốn cho người dân đất Việt khắp nơi được sống hạnh phúc, ấm no. Vẻ đẹp tâm hồn, khát vọng sống của nhà thơ luôn ám ảnh trong tâm hồn mỗi chúng ta. Đó chính là lời giáo huấn sâu sắc nhất, có "hiệu quả" nhất mà bài thơ mang lại. Từ cách hiểu đó, thiết nghĩ không nên đặt nhan đề cho bài thơ là Cảnh ngày hè mà nên giữ nguyên nhan đề như nó bấy lâu nay đã từng tồn tại .
Chúng tôi luôn ý thức một cách sâu sắc rằng, thấu cảm và truyền thụ được cho học sinh cái hay, cái đẹp của một bài thơ trữ tình tinh tế, sâu sắc như bài Bảo kính cảnh giới số 43 của Nguyễn Trãi là một công việc hết sức khó khăn. Một tác phẩm hay không bao giờ là một tác phẩm dễ hiểu, đơn nghĩa. Vẻ đẹp tinh tế của nó luôn tiềm ẩn, mở ngỏ cho mọi sự tìm tòi, khám phá. Vì vậy, những ý kiến trên đây của chúng tôi chỉ là một trong những cách hiểu, một hướng tìm tòi. Qua thực tế giảng dạy bài thơ trên ở lớp 10 trong nhiều năm qua, chúng tôi nhận thấy về cơ bản, các em có hứng thú học tập và tỏ ra tiếp nhận được những giá trị cơ bản của bài thơ. Chính điều đó đã giúp chúng tôi tự tin hơn về cách hiểu và hướng khai thác trên đây của mình.
-----------------
*1. Nhan đề bài thơ Bảo kính cảnh giới số 43 được tác giả SGK đặt lại là "Cảnh ngày hè". ( Xem thêm: Phan Thị Thanh Vân, "Đôi điều trao đổi về văn bản và hướng khai thác bài thơ Bảo kính cảnh giới số 43 của Nguyễn Trãi", Hội thảo khoa học dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông theo chương trình và sách giáo khoa mới, BGD & ĐT, trường Đại học Vinh- Sở GD&ĐT Nghệ An, Sở GD&ĐT Hà Tĩnh- Sở GD&ĐT Thanh Hoá, Nxb Nghệ An, 2007).
2.Nguyễn Đình Chú- Nguyễn Lộc chủ biên, Văn học 10, tập 1 (Sách giáo viên), Nxb Giáo Dục, H. 2000. tr 97.
3 . Sdd, tr 98.
4 . Lã Nhâm Thìn, Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb Giáo Dục, H. 1997, tr 151.
5 . Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, H.1976, tr 453
6. .Nguyễn Trãi, Quốc âm thi tập, Nxb Văn -Sử -Địa, H 1956, tr 43
7. Nguyễn Sĩ Cẩn, Mấy vấn đề về phương pháp dạy thơ văn cổ Việt Nam, Nxb Giáo Dục, H.1984, tr 131
8. Nguyễn Ngọc San, Thử bàn về vấn đề phiên Nôm Bài tham gia Hội nghị chữ Nôm Quốc tế (Ngày 12-14 tháng 11, năm 2004),Thư viện Quốc gia Việt Nam.
Bình luận
Unregistered
Không sợ say ngã xuống dòng sông
Chỉ sợ dòng sông không dậy sóng
Án Lệ Chi Viên của Nguyễn Trãi đã được giải, nhưng còn oan Nguyễn Thị Lộ đã ai hóa giải cho đâu. Sự công bằng của lịch sử đòi hỏi phải giải quyết điều ấy.
Hạnh Vân nhớ không? Có thời chúng ta khẳng định Xuân Diệu là nhà thơ tình nổi tiếng, mà lại cho học sinh học bài "Ngói mới". Với Nguyễn Trãi, phải cho học sinh học những tác phẩm đầy trắc ẩn trong tâm sự của cụ khi lui về Yên Tử sống với tre trúc, chim gù, suối reo và cái cần câu của bậc lão trượng "lấy dân làm gốc"- "Lật thuyền mới biết dân như nước".
Nguyễn Trãi nói rồi mà: "Nét mặt hom hom có tí rượu mới sanh vầng hồng". Nói thật, cụ Nguyễn Trãi viết thơ về rượu rất giỏi, và đó cũng là những bài thơ ẩn chứa đầy tâm sự đau đáu nỗi đau nhân tình cửa Ức Trai sao khuê tỏa sáng. Nếu chương trình không chọn dạy những bài đó thì hãy ngoại khóa cho học sinh tìm hiểu nỗi niềm tâm sự đau đời của thi hào dân tộc.
Hạnh Vân nhớ cho rằng, vị công thần số một, người dâng Bình Ngô sách, vực dậy cả cuộc khởi nghĩa Lam sơn từ khi "thóc không một cân", "quân không một đội", phải giết cả ngựa chiến để ăn, đến lúc thế mạnh "trúc chẻ tro bay", "ngày 18 Liễu Thăng thất thế, ngày 20 Liễu Thăng cụt đầu, ngày 25 bá tước Lương Minh đại bại tử vong, ngày 28 thương thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn"... vậy mà khi cơ đồ được dựng, chỉ được phong trật hàm hạng 78 trong triều với cái tên vua ban Lê Trãi. Nguyễn Trãi thấy hết nên mới lui về Côn Sơn với tên Ức Trai. Đây là giai đoạn cụ nghiền ngẫm thế sự nên thơ hay không tưởng được.
Hạnh Vân hãy ngoại khóa cho học sinh các lớp 12 điều này nhen!
Cám ơn Hạnh Vân - Mạnh Bình và các thầy cô, các anh chị đã quan tâm tới đại thi hào của dân tộc!
--------------------------------------
Trên đây là lời bình của anh Hồ Tĩnh Tâm trên blog " Gó Lộng Chiều Xanh".
MB[/u]
Unregistered
Unregistered
Người Kinh Bắc
Nhóm: Members
Bài viết: 1
Nhập: 13-April 06
Thành viên: 2,195
Tôi cũng rất mệt mỏi với kiểu dạy hs chỉ cần chúng thuộc những ý của bài(mà đó chắc chắn sẽ là nội dung mà đề sẽ cho thi..); và bực bội vì kiểu ở tất cả các hội đồng thi khi chấm chỉ " Đếm ý ăn điểm... Giáo viên chỉ cần" đọc chép, hoặc... chép chép" là hs có thể đậu. Trách nhiệm và ý thức nghề nghiệp, và nhất là cái tâm với văn chương hình như cứ cạn dần trong nhiều GV văn chứ kg phải chỉ mỗi ở học trò...
Tôi đồng ý với bạn rằng: HS không đến nỗi khô khan như khi chúng viết bài trên lớp nếu ta đọc những trang blogs của các em. Tôi còn nhận ra rằng: Chúng rất có ý thức và trách nhiệm với cộng đồng bởi những điều chúng quan tâm .
Dạy văn theo cái đà này, theo cấu trúc cương trình " dạy chạy học chạy..." thì ... hậu quả nhỡn tiền ta đã biết.!
Nếu có thể được, tôi cũng sẽ gởi tài liệu GD qua mail để bạn tham khảo và góp ý Chúc bạn Có Nhiều Niềm Vui và hạnh phúc !